** Tập 7 Đường Thi – SNHT

a non bo 07 b

unnamed

塞 下 曲

其 二

天 兵 下 北 荒
胡 馬 欲 南 飲
橫 戈 從 百 戰
直 為 銜 恩 甚
握 雪 海 上 餐
拂 沙 隴 頭 寢
何 當 破 月 支
然 后 方 高 枕

李 白

Tái Hạ Khúc

kỳ nhị

Thiên binh há bắc hoang
Hồ mã dục nam ẩm
Hoành qua tòng bách chiến
Trực vị hàm ân thậm
Ác tuyết Hải thượng xan
Phất sa lũng đầu tẩm
Hà đương phá Nguyệt Chi
Nhiên hậu phương cao chẩm

Lý Bạch

(bài hát dưới ải)

(bài 2)

(quân trời [ta] tiến lên miền bắc hoang vu)
(rợ Hồ muốn đưa ngựa xuống phía nam uống nước)
(cầm ngang ngọn giáo xông pha trăm trận)
(vì mang ơn [vua] rất sâu nặng)
(vốc tuyết trên vùng [Thanh] Hải mà ăn [cho đỡ khát])
(phủi cát trên gò đống mà [kiếm chỗ] ngủ)
(khi nào chiếm được [nước] Nguyệt Chi)
(khi đó mới có thể gối đầu cao [mà ngủ yên] được)

Bài Hát Dưới Ải 2

Quân binh trời tiến ầm ầm cõi Bắc
Loài ngựa Hồ muốn uống nước vùng Nam
Trăm trận rồi ngọn giáo vẫn cầm ngang
Niềm mong ước trả ân sâu thiên tử
Nơi vùng Hải vốc tuyết ăn qua bữa
Dưới lũng sâu phủi cát ngủ qua đêm
Đến bao giờ bọn giặc Nguyệt dẹp yên
Ta mới lại bên gối cao ngơi nghỉ

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 三

駿 馬 似 風 飆
鳴 鞭 出 渭 橋
彎 弓 辭 漢 月
插 羽 破 天 驕
陣 解 星 芒 盡
營 空 海 霧 消
功 成 畫 麟 閣
獨 有 霍 嫖 姚

李 白

Tái Hạ Khúc 3

Tuấn mã tự phong tiêu
Minh tiên xuất Vị kiều
Loan cung từ Hán nguyệt
Sáp vũ phá thiên kiêu
Trận giải tinh mang tận
Doanh không hải vụ tiêu
Công thành họa Lân các
Độc hữu Hoắc phiêu diêu

Lý Bạch

(bài hát dưới ải 3)

(ngựa tốt [chạy nhanh] như cơn gió lốc)
(hét lớn và ra roi [cho ngựa] vượt cầu Vị)
(dương cung giã từ trăng sông Hán)
(lắp tên phá giặc mạnh}
(trận tan, ánh trăng sao đã lặn hết)
(doanh trại vắng vẻ, sương mù tan)
(công thành, được vẽ hình ở gác [Kỳ] Lân)
(chỉ có một mình tướng quân họ Hoắc)

Bài Hát Dưới Ải 3

Vó tuấn mã sải như gió lướt
Vừa vung roi đã vượt Vị rồi
Giơ cung biệt Hán trăng soi
Lắp tên giết lũ giặc trời kiêu binh
Tàn trận chiến ánh tinh tú tắt
Nhìn khắp dinh lạnh ngắt, sương tan
Công thành ghi dấu gác Lân
Chả ai ngoài Hoắc Tướng quân kỳ tài

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 四

白 馬 黃 金 塞
雲 砂 繞 夢 思
那 堪 愁 苦 節
遠 憶 邊 城 兒
螢 飛 秋 窗 滿
月 度 霜 閨 遲
搉 殘 梧 桐 葉
蕭 颯 沙 棠 枝
無 時 獨 不 見
淚 流 空 自 知

李白

Tái Hạ Khúc 4

Bạch mã Hoàng Kim tái
Vân sa nhiễu mộng ti
Na kham sầu khổ tiết
Viễn ức biên thành nhi
Huỳnh phi thu song mãn
Nguyệt độ sương khuê trì
Tồi tàn ngô đông diệp
Tiêu táp sa đường chi
Vô thời độc bất kiến
Lệ lưu không tự tri

Lý Bạch

(bài hát dưới ải 4)

(ngựa trắng [theo chàng] ra ải Hoàng Kim)
(mây và cát cứ luẩn quẩn trong mộng tưởng)
(nỗi buồn và vất vả khôn kể siết)
(nơi xa thương nhớ người nơi quan ải)
(mùa thu, đom đóm bay đầy ngoài cửa sổ)
(trăng soi trễ làn sương quanh phòng chinh phụ)
(lá ngô đồng xác xơ)
(cành sa đường phơ phất)
(cứ mãi mãi một mình, chẳng thấy [chàng] đâu)
(nước mắt rơi lúc nào mà [mình] không hay)

Bài Hát Dưới Ải 4

Ngựa trắng nơi Hoàng ải
Mây cát lẫn vào mơ
Nỗi sầu dâng đầy ngập
Nhớ người nơi xa mờ
…………..
Thu đom đóm bên song
Ánh trăng chiếu cô phòng
Hơi sương dâng nhòa nhạt
Niềm bâng khuâng không cùng
…………….
Ngô đồng tan tác lá
Nhánh sa đường xác xơ
Vời trông hoài chẳng thấy
Cô đơn mắt lệ mờ

SongNguyễn HànTú
unnamed

塞 下 曲

其 五

塞 虜 乘 秋 下
天 兵 出 漢 家
將 軍 分 虎 竹
戰 士 臥 龍 沙
邊 月 隨 弓 影
胡 霜 拂 劍 花
玉 關 殊 未 入
少 婦 莫 長 嗟

李 白

Tái Hạ Khúc 5

Tái lỗ thừa thu há
Thiên binh xuất Hán gia
Tưóng quân phân hổ trúc
Chiến sĩ ngọa Long Sa
Biên nguyệt tùy cung ảnh
Hồ sưong phất kiếm hoa
Ngọc Quan thù vị nhập
Thiếu phụ mạc trường ta

Lý Bạch
(bài hát dưới ải 5)

(giặc ngoài biên ải thừa dịp mùa thu kéo quân xuống)
(quân trời từ các gia đình Hán tộc tòng quân)
(các tướng được giao ấn bổ nhiệm)
(quân lính đóng trại trên bãi Long Sa)
(trăng biên giới như mang hình ảnh vành cung)
(sương khói đất Hồ lướt trên ánh kiếm)
([giặc] chưa vào được của Ngọc Quan)
(xin các bà chớ than trách nhiều)

Bài Hát Dưới Ải 5

Nhân mùa thu giặc ải ngoài tràn xuống
Quân nhà trời binh tướng Hán tiến ra
Ấn Hổ bài các tướng lãnh phân chia
Long Sa bãi đoàn hùng binh án ngữ
Trăng biên giới vành lưỡi liềm lấp ló
Ánh gươm ngời lấp loáng giữa sương Hồ
Ải Ngọc Quan vẫn còn đứng trơ trơ
Thôi… thiếu phụ, đừng ngày đêm than oán

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 六

烽 火 動 沙 漠
連 照 甘 泉 雲
漢 皇 按 劍 起
還 召 李 將 軍
兵 氣 天 上 合
鼓 聲 隴 底 聞
橫 行 負 勇 氣
一 戰 靜 妖 氛

李 白

Tái Hạ Khúc 6

Phong hỏa động sa mạc
Liên chiếu Cam Tuyền mây
Hán Hoàng án kiếm khời
Hoàn triệu Lý tướng quân
Binh khí thiên thượng hợp
Cổ thanh lũng để văn
Hoành hành phụ dũng khí
Nhất chiến tĩnh yêu phân

Lý Bạch
(bài hát dưới ải 6)

(lửa báo nguy trên các đài cao làm sa mạc chấn động)
(liên tiếp chiếu lên các từng mây ở Cam Tuyền)
(vua nhà Hán chống kiếm đứng dậy)
(rồi truyền cho mời tướng quân họ Lý [vào chầu])
(khí thế của quan quân cao ngất trời)
(tiếng trống vang dội dưới thung lũng)
(xông pha với đầy oai hùng)
(một trận dẹp yên hết các yêu quái)

Bài Hát Dưới Ải 6

Nơi sa mạc lửa động binh ngùn ngụt
Khói bay cao mờ mịt phủ Cam Tuyền
Chống báu gươm vua Hán Đế đứng lên
Truyền gọi Lý tướng quân tuân chiếu chỉ
Ý ngất trời khắp mọi hàng quân sĩ
Thung lũng sâu trống vang động ầm ầm
Ý muôn người như một khắp toàn quân
Chỉ một trận dẹp tan loài yêu quái

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 一

鷲 翎 金 僕 姑
燕 尾 繡 敖 弧
獨 立 揚 新 令
千 營 共 一 呼

盧 綸

Tái Hạ Khúc 1

Thứu linh Kim bộc cô
Yến vĩ tú Ngao hồ
Độc lập dương tân lệnh
Thiên doanh cộng nhất hô
Lư Luân

(khúc hát dưới ải 1)

([lưng đeo] tên Kim Bộc Cô làm bằng lông chim thứu)
([đứng dưới] cờ thêu Ngao Hồ hình đuôi én)
([tướng quân] đứng một mình [trên đài cao] tuyên lệnh mới)
([binh sĩ] trong cả ngàn đội ngũ cùng hô [tuân lệnh] một lúc}

Khúc Hát Dưới Ải 1

Tên Kim Bộc lông thứu
Đuôi én cờ Ngao Hồ
Một mình đứng truyền lệnh
Nghìn quân cùng tung hô

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 二

林 暗 草 驚 風
將 軍 夜 引 弓
平 明 尋 白 羽
沒 在 石 棱 中

盧 綸

Tái Hạ Khúc 2

Lâm ám thảo kinh phong
Tướng quân dạ dẫn cung
Bình minh tầm bạch vũ
Một tại thạch lăng trung

Lư Luân

(khúc hát dưới ải 2)

(rừng tối tăm, cây cỏ bị gió lay động)
(ban đêm [nhìn tảng đá lớn tưởng hổ tới] tướng quân bắn cung)
(sáng ra [cho người] đi kiếm [mũi tên có] lông chim trắng)
(thấy [mũi tên] rơi gần trong một góc đá)

Khúc Hát Dưới Ải 2

Rừng mờ gió dạt cỏ
Đêm tướng quân bắn cung
Sáng mũi tên lông trắng
Nằm khe đá ven rừng

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 三

月 黑 雁 飛 高
單 于 夜 遁 逃
欲 將 輕 騎 逐
大 雪 滿 弓 刀

盧 綸

Tái Hạ Khúc 3

Nguyệt hắc nhạn phi cao
Thiền Vu dạ độn đào
Dục tương khinh kỵ trục
Đại tuyết mãn cung đao

Lư Luân
(khúc hát dưới ải 3)

( trăng u ám, nhạn đã bay cao)
([tướng giặc] Thiền Vu [lợi dụng] đêm tối trốn chạy)
(kỵ binh [chuẩn bị] đuổi theo)
(cung đao bám đầy tuyết)

Khúc Hát Dưới Ải 3

Nhạn bay, trăng u ám
Chúa Thiền Vu rút lui
Tính đem kỵ binh rượt
Đao cung tuyết phủ vùi

SongNguyễn HànTú

unnamed

塞 下 曲

其 四

野 幕 敞 瓊 筵
羌 戎 賀 勞 旋
醉 和 金 甲 舞
雷 鼓 動 山 川

盧 綸

Tái Hạ Khúc 4

Dã mạc xưởng quỳnh diên
Khương Nhung hạ lao toàn
Túy hòa kim giáp vũ
Lôi cổ động sơn xuyên

Lư Luân

(khúc hát dưới ải 4)

(mở tiệc lớn ngay trong doanh trại giữa đồng cỏ)
(để mừng công lao dẹp xong giặc Khương Nhung)
([tướng quân] say quá mặc nguyên bộ giáp sắt mà nhảy múa)
(tiếng trống rền như sấm chấn động cả sông núi)

Khúc Hát Dưới Ải 4

Tiệc tưng bừng giữa đồng
Dẹp xong bọn Khương Nhung
Thấm men mang giáp múa
Trống vang dậy núi sông

SongNguyễn HànTú
unnamed

在 獄 詠 蟬
西 陸 蟬 聲 唱
南 冠 客 思 侵
那 堪 玄 鬢 影
來 對 白 頭 吟
露 重 飛 難 進
風 多 響 易 沉
無 人 信 高 潔
誰 為 表 予 心
駱 賓 王Tại ngục vịnh thiền

Tây lục thiền thanh xướng
Nam quan khách tứ xâm
Bất kham huyền mấn ảnh
Lai đối bạch đầu ngâm
Lộ trọng phi nan tiến
Phong đa hưởng dị trầm
Vô nhân tín cao khiết
Thùy vị biểu dư tâm ?

Lạc Tân Vương

(ở tù vịnh con ve)

(mùa thu vang tiếng ve kêu)
(khiến cho kẻ ở tù đang nhớ nhà da diết)
(không chịu nổi [âm thanh do] đôi cánh đen mờ [rung thành])
(đến rên rỉ với người tóc bạc [là ta])
([ve] vì sương đẫm nên khó bay đi được)
([ve] vì gió nhiều nên tiếng kêu dễ bị chìm khuất)
(chẳng có ai tin [ve] vốn [đậu trên] cao [uống sương] tinh khiết)
(thì còn ai bày tỏ nỗi lòng giùm ta ?!)

ở tù vịnh con ve

Âm ve rền rĩ Thu buồn
Khiến người trong ngục cõi hồn trũng sâu
Tiếng rung đôi cánh thẫm mầu
Cảm ta mái tóc trên đầu trắng tươi
Ướt sương cánh nặng khó rời
Âm chìm tan loãng giữa trời gió giông
Ai tin ve sạch một giòng
Đâu người giải tỏ nỗi lòng dùm cho

SongNguyễn HànTú
unnamed

尋 隱 者 不 遇
松 下 問 童 子
言 師 採 藥 去
只 在 此 山 中
雲 深 不 知 處
賈 島Tầm ẩn giả bất ngộ

Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ

Giả Đảo

tìm người ở ẩn không gặp

(dưới thông hỏi cậu bé)
(đáp rằng: thầy đi hái thuốc)
(chỉ trong núi này mà thôi)
(nhưng mây phủ kín nên không biết nơi đâu)

Giả Đảo

Tìm người ở ẩn không gặp

Dưới gốc thông gọi tiểu đồng lại hỏi
Nói Thầy đi hái thuốc núi rừng sâu
Chỉ về phía mây xám giăng dầy đặc
Nào biết thầy hiện đang ở nơi đâu !

SongNguyễn HànTú
unnamed

蠶 穀 行
天 下 郡 國 向 萬 城
無 有 一 城 無 甲 兵
安 得 鑄 甲 作 農 器
一 寸 荒 田 牛 得 耕
牛 盡 耕 蠶 亦 成
不 勞 烈 士 淭 滂 沱
男 穀 女 絲 行 復 歌
杜 甫Tàm Cốc Hành

Thiên hạ quận quốc hướng vạn thành
Vô hữu nhất thành vô giáp binh
An đắc chú giáp tác nông khí
Nhất thốn hoang điền ngưu đắc canh
Ngưu tận canh, tằm diệc thành
Bất lao liệt sĩ lệ bàng đà
Nam cốc nữ ti hành phục ca

Đỗ Phủ
(bài ca nuôi tằm và trồng lúa)

(các quận huyện dưới gầm trời có cả vạn thành lũy)
(không có một thành nào lại không có binh khí)
(nếu như nấu chảy binh khí mà đúc nông cụ)
(thì mỗi tấc ruộng hoang đều có trâu cày)
(trâu cày nhiều, thì tằm cũng chín)
([lúc đó] chẳng cần liệt sĩ khóc nhiều [vì tốn máu xương])
(trai trồng lúa, gái kéo sợi, vừa làm vừa hát)

Bài Hành Nuôi Tằm Trồng Lúa

Gầm trời thành quách hằng hà
Nơi nơi đầy ắp những là gươm đao
Phải chi hoán cải được nào
Kiếm cung thành cuốc, gươm đao thành cầy
Ruộng hoang đâu phí thế này
Trâu ra sức kéo, kén đầy khung tơ
Làm sao có mắt lệ mờ
Đời vui tiếng hát bên bờ nương dâu

SongNguyễn HànTú

unnamed

三 閭 廟
沅 湘 流 不 盡
屈 子 怨 何 深
日 暮 秋 風 起
蕭 蕭 楓 樹 林
戴 叔 倫Tam Lư Miếu

Nguyên Tương lưu bất tận
Khuất Tử oán hà thâm
Nhật mộ thu phong khởi
Tiêu tiêu phong thụ lâm

Đới Thúc Luân

Ghi chú: Khuất Tử tức Khuất Nguyên, danh sĩ nước Sở thời Chiến Quốc,
làm quan tới chức Tả đồ, bị dèm pha, ông bị giáng đến vùng có
sông Nguyên và sông Tương chảy qua, làm chức Tam lư, ông
tự vẫn.

(miếu thờ ông [làm chức] Tam Lư)

(sông Nguyên và sông Tương chảy hoài không dứt)
(lòng ông Khuất Tử oán hận sâu chừng nào?)
(chiều xuống, gió thu nổi lên)
(ào ào trong rừng phong)

Miếu Tam Lư

Nguyên Tương nước chảy không ngừng
Khuất quan nỗi oán trùng trùng thâm u
Chiều dần xuống
Gió vi vu
Rừng phong hiu hắt
Tiếng thu xạc xào

SongNguyễn HànTú

unnamed

尋 陸 鴻 漸 不 遇
移 家 雖 帶 郭
野 徑 入 桑 麻
近 種 籬 邊 菊
秋 來 未 著 花
扣 門 無 犬 吠
欲 去 問 西 家
報 道 山 中 去
歸 來 每 日 斜
[僧] 皎 然Tầm Lục Hồng Tiệm Bất Ngộ

Di gia tuy đới quách
Dã kính nhập tang ma
Cận chủng ly biên cúc
Thu lai vị trước hoa
Khấu môn vô khuyển phệ
Dục khứ vấn tây gia
Báo đạo sơn trung khứ
Quy lai mỗi nhật tà

[Sư]Hạo Nhiên

(tìm Lục Hồng Tiệm không gặp)
(dù rằng nhà chỉ dời ra ngoại ô thôi)
(nhưng đường mòn phải qua bụi dâu và gai)
(cúc trồng gần bên giậu)
(thu về chưa nở hoa)
(gỏ cửa không nghe chó sủa)
(đi hỏi thăm nơi nhà phía tây)
(họ cho biết [ông ấy] đi vào trong núi)
(ngày nào cũng xế chiều mới về)

Thăm Lục Hồng Tiệm Không Gặp

Ghé thăm, bác đã dọn thành ngoài
Quanh co qua lối nhỏ dâu gai
Cúc trồng bờ giậu vun đất mới
Trời đã thu về chửa hoa khai
– – – –
Gõ cửa chó đâu chẳng sủa người
Ghé sang hàng xóm hỏi quanh thôi
Được biết ngày ngày ông vào núi
Chỉ trở lại nhà lúc tối trời

SongNguyễn HànTú

unnamed

三 月 晦 日 送 春
三 月 正 當 三 十 日
春 光 別 我 苦 吟 身
共 君 今 夜 不 須 睡
未 到 曉 鐘 猶 是 春
賈 島Tam Nguyệt Hối Nhật Tống Xuân

Tam nguyệt chính đương tam thập nhật
Xuân quang biệt ngã khổ ngâm thân
Cộng quân kim dạ bất tu thụy
Vị đáo hiểu chung do thị xuân.

Giả Đảo
(ngày cuối tháng 3, tiễn xuân)

(đang là ngày 30 tháng 3)
(vẻ xuân đã rời xa kẻ làm thơ khó tánh này)
(đêm nay tất cả các bạn không nên ngủ)
(vì chuông ban mai chưa điểm thì kể như xuân vẫn còn)

Ngày Cuối Tháng Ba, Tiễn Xuân

Bài 1
Ngày ba mươi tháng ba
Vẻ xuân rời bỏ ta
Đêm nay đừng ngủ nhé
Chuông sớm chưa điểm mà

Bài 2

Tháng Ba ngày cuối đã tới rồi
Dáng xuân rời gã chẳng dễ chơi
Này bạn chúng ta đừng ngủ nhé
Chuông sớm chưa ngân …. Xuân chửa rời
SongNguyễn HànTúunnamed

三 月 晦 日 送 客
野 酌 亂 無 巡
送 君 兼 送 春
明 年 春 色 至
莫 作 未 歸 人
崔 櫓Tam Nguyệt Hối Nhật Tống Khách

Dã chước loạn vô tuần
Tống quân kiêm tống xuân
Minh niên xuân sắc chí
Mạc tác vị quy nhân

Thôi Lỗ

(ngày cuối tháng 3 tiễn khách)

(uống rượu ngoài đồng không còn theo tuần tự nữa)
(tiễn bạn mà cũng là tiễn xuân)
(sang năm khi xuân về)
(đừng có làm kẻ chưa trở lại)

Ngày Cuối Tháng Ba Tiễn Khách

Uống ngất ngưởng chả biết bao tuần nữa
Tiễn mùa xuân và tiễn bước ông đi
Sang năm nhớ tới mùa này ông nhé
Đừng đóng vai người khách lạc đường về

SongNguyễn HànTú

unnamed

三 絕句

其 一

秋 樹 馨 香 倚 釣 磯
斬 新 花 蕊 未 應 飛
不 如 醉 裡 風 吹 盡
且 忍 醒 時 雨 打 稀

杜 甫

Tam tuyệt Cú
kỳ nhất

Thu thụ hinh hương ỷ điếu ky
Trảm tân hoa nhụy vị ưng phi
Bất như túy lý phong xuy tận
Thả nhẫn tinh thời vũ đả hi

Đỗ Phủ
( 3 bài-thơ-4-câu)

(cây thu tỏa hương thơm, [ta] tựa vách đá câu cá)
(các nhụy hoa đều mới hé chưa dễ gì bị gió cuốn)
(chẳng thà trong lúc [ta] đang say gió cuốn đi hết)
(còn hơn khi tỉnh [phải nhìn] mưa vùi dập vài đoá)

Bài 1

Dựa đá ôm cần… thu đưa hương
Nụ hoa vừa hé… gió cũng nhường
Chẳng thà giông cuốn khi say ngả
Hơn nhìn mưa dập thấy mà thương

SongNguyễn HànTú
unnamed

三 絕 句

其 二

門 外 鸕 鶿 久 不 來
沙 頭 忽 見 眼 相 猜
自 今 以 後 知 人 意
一 日 須 來 一 百 回

杜 甫

Tam Tuyệt Cú
kỳ nhị

Môn ngoại lô tư cửu bất lai
Sa đầu hốt kiến nhãn tương sai
Tự kim dĩ hậu tri nhân ý
Nhất nhật tu lai nhất bách hồi

Đỗ Phủ
(ba Bài-4-câu)

(bài 2)

(đã lâu rồi chim bồ nông không tới trước cửa)
(chợt thấy nhau ở đầu bãi sông, ánh mắt [chim] nghi ngại)
(từ nay về sau, [chim] đã biết ý [mến chim] của người rồi)
([thì] mỗi ngày phải tới một trăm lần [đấy nhé]}

Ba Bài-4-câu

bài 2

Lâu nay chẳng thấy bồ nông
Nhưng kìa đầu bãi không chừng ngó sai
Chim ơi nếu luyến tình người
Lại trăm lần nhé …. đây trời bình yên

SongNguyễn HànTú

unnamed

三 絕 句

其 三

無 數 春 筍 滿 林 生
柴 門 密 掩 斷 人 行
會 須 上 番 看 成 竹
客 至 從 嗔 不 出 迎

杜 甫

Tam Tuyệt Cú kỳ tam

Vô số xuân duẩn mãn lâm sinh
Sài môn mật yểm đoạn nhân hành
Hội tu thượng phiên khán thành trúc
Khách chí tòng sân bất xuất nghênh

Đỗ Phủ
(ba Bài-4-câu kỳ ba)

(rất nhiều măng xuân trổ lên khắp rừng)
(cổng cây đóng kín không cho người qua lại)
(lần sau tới coi đã lớn thành trúc)
(khách đến [trúc] nổi hờn không ra nghênh đón )

Ba Bài-4-câu

bài 3

Măng non đang mọc đầy rừng
Cổng cây đóng kín người không lối vào
Mai đây măng hóa trúc cao
Muốn thăm lòng giận chẳng chào đón đâu

SongNguyễn HànTú
unnamed

尋 雍 尊 師 隱 居
群 峭 碧 摩 天
逍 遙 不 記 年
撥 云 尋 古 道
倚 樹 聽 流 泉
花 暖 青 牛 臥
松 高 白 鶴 眠
語 來 江 色 暮
獨 自 下 寒 煙
李 白Tầm Ung Tôn Sư Ẩn Cư

Quần tiểu bích ma thiên
Tiêu dao bất ký niên
Bát vân tầm cổ đạo
Ỷ thụ thính lưu tuyền
Hoa noãn thanh ngưu ngọa
Tùng cao bạch hạc miên
Ngữ lai giang sắc mộ
Độc tự há hàn yên

Lý Bạch

(tìm nơi ở ẩn của Thày Ung)

(đám ngọn núi cao xanh tiếp cận tới trời)
(cuộc sống an nhàn không ghi nhớ gì tới năm tháng)
(rẽ mây đi tìm lối cũ)
(dựa thân cây nghe tiếng suối reo)
(trâu xanh nằm dưới dàn hoa ấm áp)
(hạc trắng ngủ trên cành thông cao)
(chuyện trò cho tới lúc chiều về trên sông)
(một mình tự xuống núi trong sương khói lạnh)

Tìm Nơi Ung Tôn Sư Ẩn Cư

Điệp trùng núi biếc ngút trời
Chả ngày, chả tháng đời trôi vô thường
Vén mây thong thả tìm đường
Dựa cây nghe tiếng suối tuôn mơ hồ
Trâu xanh nằm nghỉ dưới hoa
Hạc ngơi trên ngọn thông già cheo leo
Chuyện tàn …sông ngả bóng chiều
Lối về khói tỏa tịch liêu lạnh lùng

SongNguyễn HànTú
unnamed

新 安 道 中 翫 流 水
一 渠 春 水 碧 潺 潺
密 竹 繁 花 掩 映 間
看 處 便 須 終 日 住
算 來 寧 得 此 身 閒
縈 紆 似 接 迷 人 洞
清 冷 應 連 有 雪 山
上 卻 征 車 更 回 首
了 然 塵 土 不 相 關
吳 融Tân An Đạo Trung Ngoạn Lưu Thủy

Nhất cừ xuân thủy bích sàn sàn
Mật trúc phồn hoa yểm ánh gian
Khán xứ tiện tu chung nhật trú
Toán lai ninh đắc thử thân nhàn
Oanh vu tự tiếp mê nhân động
Thanh lãnh ưng liên hữu tuyết sơn
Thướng khước chinh xa cánh hồi thủ
Liễu nhiên trần thổ bất tương quan

Ngô Dung

(trên đường đi Tân An, vui chơi bên dòng nước)

(ngày xuân, [bên bờ] một dòng nước biếc chảy lăn tăn)
([có] một khoảng dợp mát che bởi nhiều hoa và tre rậm)
(thấy chỗ rồi, tất phải ở chơi nguyên ngày)
(tính toán ra cái thân này được hưởng nhàn cái đã)
(hang động quanh co, tiếp nối [đẹp] mê lòng người)
([không khí] trong trẻo và mát lạnh như thông với núi tuyết)
(đã lên xe để đi rồi mà còn ngoảnh đầu lại)
(rõ ràng là [nơi đây] không có vương vấn bụi trần)

Vui với cảnh Trên Đường Đi Tân An

Bên nước biếc lững lờ mầu xuân thắm
Trúc mọc đầy, hoa lá cản dương quang
Cứ quẩn quanh đến hết một ngày đường
Cảnh thanh tú thân nhẹ nhàng thư thả
Lối khúc khuỷu dễ lạc chân khách lạ
Gió lạnh lùa dường thông núi tuyết băng
Lên xe rồi…nhìn nuối tiếc ngập lòng
Đúng là chốn cách xa vời gió bụi

SongNguyễn HànTú
unnamed

秦 州 雜 詩
莽 莽 萬 重 山
孤 城 山 谷 閒
無 風 雲 出 寒
不 夜 月 臨 關
屬 國 歸 何 晚
樓 蘭 斬 未 還
煙 塵 獨 長 望
衰 颯 正 摧 顏
杜 甫Tần Châu Tạp Thi

Mãng mãng vạn trùng san
Cô thành sơn cốc gian
Vô phong vân xuất tái
Bất dạ nguyệt lâm quan
Thuộc quốc quy hà vãn
Lân Lan trảm vị hoàn
Yên trần độc trường vọng
Suy táp chính tồi nhan

Đỗ Phủ
(thơ vặt làm tại Tần Châu)

(núi non trùng điệp cỡ vạn ngọn)
(có một thành lẻ loi được dựng lên trong thung lũng)
([tuy] không có gió nhưng mây vẫn bay khỏi ải)
(chưa tối hẳn mà trăng [non] đã mọc trên cửa quan rồi)
([sứ giả] nước lệ thuộc trở về chậm trễ)
([quan quân] đi chém giết giặc Lâu Lan vẫn chưa về)
(nhìn ra xa xa chỉ thấy toàn sưong khói và cát bụi)
(vẻ mặt suy tàn, sa sút thấy rõ)

Tạp Thi

Giữa trùng trùng núi biếc
Toà thành đứng lẻ loi
Gió đâu sao lặng quá
Mây trời lững lờ trôi

Màn đêm chưa buông xuống
Mờ mờ trên ải xa
Vầng trăng bơ vơ đứng
Người đi sứ chưa về

Đất Lâu Lan chinh phục
Tướng đi vẫn ngóng trông
Chiến tranh còn chưa dứt
Sầu dâng ngập cõi lòng

SongNguyễn HànTú
unnamed

賓 至
幽 棲 地 僻 經 過 少
老 病 人 扶 再 拜 難
豈 有 文 章 驚 海 內
漫 勞 車 馬 駐 江 干
竟 日 淹 留 佳 客 話
百 年 麤 糲 腐 儒 餐
不 嫌 野 外 無 供 給
乘 興 還 來 看 藥 欄
杜 甫Tân Chí

U thê địa tịch kinh qua thiểu
Lão bệnh nhân phù tái bái nan
Khởi hữu văn chương kinh hải nội
Mạn lao xa mã trú giang can
Cánh nhật yêm lưu giai khách thoại
Bách niên thô lệ hủ nho xan
Bất hiềm dã ngoại vô cung cấp
Thừa hứng hoàn lai khán dược lan

Đỗ Phủ
(khách tới)

(chỗ ở u tịch hẻo lánh, ít người qua lại)
(đã già bệnh phải có người nâng nên đáp lễ khó khăn)
(há vì có tiếng văn chương trong vùng)
(mà khiến cho ngựa xe phải vất vả tới ven sông này)
(suốt ngày cùng khách quý đàm đạo)
(bữa ăn của nhà nho tồi này chỉ có cơm gạo đỏ thô sơ)
([đã] không chê xứ quê mùa không có món gì cung ứng)
([khách] còn có hứng thú đến xem chỗ trồng cây thuốc)

Khách tới

Xóm nghèo hẻo lánh quanh co
Thân già ngồi đứng phải nhờ đỡ nâng
Hiềm vì có chút văn chương
Ngựa xe chẳng quản ven sông đợi chờ
Suốt ngày đàm đạo văn thơ
Bữa ăn lão hủ gạo thô đãi đằng
Mến già khách vẫn thong dong
Vui chân xem thuốc trồng trong góc vườn

SongNguyễn HànTú

unnamed

新 嫁 娘
三 日 入 櫥 下
洗 手 作 羹 湯
未 諳 姑 食 性
先 遣 小 古 嘗
王 建Tân Giá Nương

Tam nhật nhập trù hạ
Tẩy thủ tác canh thang
Vị âm cô thực tính
Tiên khiển tiểu cô thường

Vương Kiến

(cô dâu mới [về nhà chồng])

(ngày thứ ba [cô dâu] xuống bếp)
(rửa tay sạch [rồi] nấu món canh hầm.
(chưa biết rõ khẩu vị của mẹ chồng)
([nên] mời cô em chồng nếm thử trước)

Gái Mới Về Nhà Chồng

Sang ngày ba nàng dâu xuống bếp
Rửa tay xong nấu món canh hầm
Chưa biết được mẹ chồng khẩu vị
Nhờ cô em nếm thữ…yên tâm

SongNguyễn HànTú
unnamed

新 秋
火 雲 猶 未 斂 奇 峰
欹 枕 初 驚 一 葉 風
幾 處 園 林 蕭 瑟 裏
誰 家 砧 杵 寂 寥 中
蟬 聲 斷 續 悲 殘 月
螢 焰 高 低 照 暮 空
賦 就 金 門 期 再 獻
夜 深 搔 首 歎 飛 蓬
杜 甫Tân Thu

Hỏa vân do vị liễm kỳ phong
Ỷ chẩm sơ kinh nhất diệp phong
Kỷ xứ lâm viên tiêu sắt lý
Thùy gia châm chử tịch liêu trung
Thièn thanh đoạn tục bi tàn nguyệt
Huỳnh diệm cao đê chiếu mộ không
Phú tựu Kim Môn kỳ tái hiến
Dạ thâm tao thủ thán phi bồng

Đỗ Phủ

(chớm thu)

(mây hồng vẫn chưa kết thành các hình núi lạ)
(tựa gối giật mình khi thấy gió thổi rụng 1 chiếc lá)
(vài nơi trong vườn rừng tiêu điều xơ xác)
(tiếng chày [đập giặt áo] nhà ai vang trong vắng lặng)
(tiếng ve dứt nối như thương tiếc trăng tàn)
(ánh đom đóm cao thấp lập lòe trong buổi xẩm tối)
(thơ đã làm xong sẽ lại trình trước [thi đàn] Kim Môn)
(đêm khuya lắc đầu thương cho [cuộc đời] như cỏ bồng trưóc gió)

Vào Thu

Ráng chưa rực rỡ xây thành lạ
Dựa gối giật mình …chiếc lá rơi
Lạnh lùng giữa cảnh rừng u tịch
Vẳng tiếng chày ai vọng rã rời
Ve ngâm rồi bặt thương trăng khuất
Chỉ đóm lập lòe đây đó thôi
Bài thơ đã sẵn dâng Kim hội
Khuya khoắt thương thân … cỏ giữa trời

SongNguyễn HànTú
unnamed

贈 別 之 一
娉 娉 嫋 嫋 十 三 餘
豆 蔻 梢 頭 二 月 初
春 風 十 里 揚 州 路
卷 上 珠 簾 總 不 如
杜 牧Tặng biệt kỳ I

Phanh phanh niểu niểu thập tam dư
Đậu khấu sao đầu nhị nguyệt sơ
Xuân phong thập lý Dương Châu lộ
Quyển thượng châu liêm tổng bất như

Đỗ Mục

(tặng lúc xa nhau bài 1)

(nàng con gái tuổi hơn 13 uyển chuyển xinh đẹp)
(như ngọn cây đậu khấu lúc đầu tháng hai)
(gió xuân thổi trên 10 dặm đường xứ Dương Châu)
(tốc hết rèm ngọc cũng chẳng [cô gái nào] bằng)

Tặng Lúc Ly Biệt

Tuổi mười ba
Chao ôi!
Xinh như mộng
Nuột nà hơn ngọn đậu khấu tháng hai
Gió Dương Châu dù thổi chục dặm dài
Tung rèm ngọc cũng chả ai sánh được

SongNguyễn HànTú
unnamed

贈 別 之二
多 情 卻 似 總 無 情
唯 覺 樽 前 笑 不 成
蠟 燭 有 心 還 惜 別
替 人 垂 淚 到 天 明
杜 牧Tặng biệt kỳ II

Đa tình khước tự tổng vô tình
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt
Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.

Đỗ Mục

(tặng lúc xa nhau bài 2)

(ta đa cảm mà rút cuộc như người vô tình)
(rõ ràng là ngồi trước chung rượu mà vui cười không được)
(cây nến còn có lòng buồn vì ly biệt [hơn ta])
( đã thay ta nhỏ lệ cho tới khi trời sáng)

Tặng Lúc Ly Biệt

Đa tình luống giống vô tình quá
Nhắp rượu mà sao vẻ thẫn thờ
Nến cũng ngậm ngùi thương ly biệt
Nhỏ thành dòng lệ đến tinh mơ

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 別 嚴 士 元
春 風 倚 棹 闔 閭 城
水 國 春 寒 陰 復 晴
細 雨 濕 衣 看 不 見
閒 花 落 地 聽 無 聲
日 斜 江 上 孤 帆 影
草 綠 湖 南 萬 里 情
東 道 若 逢 相 識 問
青 袍 今 已 誤 儒 生
劉 長 卿Tặng Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên

Xuân phong ỷ trạo Hạp Lư thành
Thủy quốc xuân hàn âm phục tình
Tế vũ thấp y khan bất kiến
Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh
Nhật tà giang thượng cô phàm ảnh
Thảo lục hồ nam vạn lý tình
Đông đạo nhược phùng tương thức vấn
Thanh bào kim dĩ ngộ nho sinh

Lưu Trường Khanh
(tặng Nghiêm Sĩ Nguyên lúc từ biệt)

(trong gió xuân, nương mái chèo về thành Hạp Lư)
(vẻ xuân trên mặt sông lạnh lúc mù mờ lúc quang đãng)
(mưa phùn làm ướt áo, có nhìn mà chẳng thấy)
(hoa rơi từ từ xuống đất, nghe không tiếng động)
(nắng chiều xế trên sông với hình ảnh cánh buồm cô độc)
(đồng cỏ xanh ở phía nam hồ gợi mối tình xa muôn dặm)
(nếu chủ nhân [ông] có gặp người quen hỏi [về tôi])
([thì nói] áo xanh nay đã làm người học trò [xưa] lầm lỡ rồi)

Tặng Nghiêm Sĩ Nguyên Khi Từ Biệt

Trong gió xuân
Nương mái chèo qua nơi thành Hạp
Tiết lạnh lùng làn nước tỏ rồi lu
Mưa mong manh chỉ như thoáng sương mù
Cánh hoa rụng nhẹ nhàng trong tĩnh lặng
Chiều bóng xế
Sông cánh buồm lẻ bóng
Bờ Nam hồ cỏ biếc đượm tình xa
Chủ nhân ơi…người quen biết hỏi ta
Xin cứ đáp… áo xanh đà lầm lỡ

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 花 卿
錦 城 絲 竹 日 紛 紛
半 入 江 風 半 入 雲
此 曲 衹 應 天 上 有
人 間 能 得 幾 回 聞
杜 甫Tặng Hoa Khanh

Cẩm thành ty trúc nhật phân phân
Bán nhập giang phong bán nhập vân
Thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu
Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn

Đỗ Phủ

Ghi chú: Hoa Kinh Định là một võ tướng cấp trung ở Thành Đô (thành Cẩm) nhưng
tiếm dụng nhạc Thiên tử. Đỗ Phủ tặng bài này để nhắc khéo họ Hoa.

(tặng Quan Lớn họ Hoa)

(hàng ngày ở thành Cẩm tiếng đào sáo tưng bừng)
(nửa bay theo gió sông, nửa lẫn vào mây trời)
(khúc nhạc này chỉ có trên cõi trời)
(người trần thế mấy khi được nghe)

Tặng Hoa Khanh

Cẩm thành dìu dặt sáo đàn
Tiếng hòa sông nước, tiếng lan mây trời
Âm thanh như tự cao vời
Mấy khi được có trong đời thế gian

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 李 白
秋 來 相 顧 尚 飄 蓬
未 就 丹 砂 愧 葛 洪
痛 飲 狂 歌 空 度 日
飛 揚 跋 扈 為 誰 雄
杜 甫Tặng Lý Bạch

Thu lai tương cố thượng phiêu bồng
Vị tựu đan sa, quí Cát Hồng
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật
Phi dương bạt hỗ vị thùy hùng?

Đổ Phủ

(tặng Lý Bạch)

(thu về trông bạn mà bạn như ngọn cỏ bồng trong gió)
(chưa luyện được thuốc tiên, thật thẹn với Cát Hồng)
(suốt ngày chỉ uống tràn và hát ngông)
(ngạo nghễ càn dỡ để tranh hùng với ai?)

Tặng Lý Bạch

Thu về nhớ kẻ phiêu bồng
Đan sa chưa đạt, Cát Hồng còn e
Suốt ngày ca hát, rượu chè
Ngông nghênh, càn dở tranh gì,…hơn ai ?

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 孟 浩 然
吾 愛 孟 夫 子
風 流 天 下 聞
紅 顏 棄 軒 冕
白 首 臥 松 雲
醉 月 頻 中 聖
迷 花 不 事 君
高 山 安 可 仰
徒 此 挹 清 芬
李 白Tặng Mạnh Hạo Nhiên

Ngô ái Mạnh phu tử
Phong lưu thiên hạ văn
Hồng nhan khí hiên miện
Bạch thủ ngọa tùng vân
Túy nguyệt tần trung thánh
Mê hoa bất sự quân
Cao sơn an khả ngưỡng
Đồ thử ấp thanh phân .

Lý Bạch
(tặng Mạnh Hạo Nhiên)

(ta yêu ông Mạnh)
(ông sống phong lưu ai ai cũng nghe biết)
(lúc trẻ ông đã từ bỏ xe và áo mũ [của quan chức]}
(sống bên thông và mây cho đến bạc đầu)
(thường uống rượu dưới trăng)
(thích hoa hơn giúp vua)
(cuộc sống trên núi cao của ông thật đáng ngưỡng mộ)
(vì thế ta bái phục tiếng thơm của đời ông)

Tặng Mạnh Hạo Nhiên

Tôi yêu thầy Mạnh Hạo
Tuyệt trần đời phong lưu
Tuổi trẻ trả tước triều
Xa công hầu, áo mão
***
Tôi yêu thầy Mạnh Hạo
Nằm gối đầu gốc tùng
Ngắm mây trời mênh mông
Yêu vầng trăng mộng ảo
***
Tôi yêu thầy Mạnh Hạo
Yêu hoa như yêu người
Việc vua chẳng đoái hoài
Tâm thanh cao vời vợi
***
Xin bái thầy ngàn vái
Đời tinh khiết tôi theo

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 內
三 百 六 十 日
日 日 醉 如 泥
雖 為 李 白 婦
何 異 太 常 妻
李 白

Tặng Nội

Tam bách lục thập nhật
Nhật nhật túy như nê
Tuy vi Thái Bạch phụ
Hà dị Thái Thường thê

Lý Bạch

Ghi chú: Thái Thường (cũng gần như Thái Giám) là một chức quan thời Hậu Hán, coi
sóc chỗ thờ phượng Tiên đế, phải giữ trai giới thanh tịnh, tuy có vợ nhưng
thường không được ngủ với vợ.

Tặng Nội (tặng vợ)

(ba trăm sáu mươi này)
(ngày nào cũng say nát như bùn)
(tuy là vợ của Lý Bạch)
(đâu có khác gì vợ của Thái Thường)

Tặng Vợ

Trọn một năm không ngày nào không xỉn
Rượu nặc nồng, thân mềm nhũn như bùn
Lấy Lý này tội nghiệp có gì hơn
Như thân phận người se duyên quan Thái

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 少 年
江 海 相 逢 客 恨 多
秋 風 葉 下 洞 庭 波
酒 酣 夜 別 淮 陰 市
月 照 高 樓 一 曲 歌
溫 庭 荺Tặng Thiếu Niên

Giang hải tương phùng khách hận đa
Thu phong lạc diệp Đông Đình ba
Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị
Nguyệt chiếu cao lâu nhất khúc ca

Ôn Đình Quân
(tặng chàng trẻ tuổi)
(gặp nhau nơi sông biển, ai cũng nhiều sầu hận [vì xa nhà])
(gió thu thổi lá vàng bay xuống sóng hồ Động Đình)
(đêm ở thị trấn Hoài Âm uống rượu thật say để từ biệt nhau)
(trăng chiếu vào lầu cao [lúc ta cùng hát] một bài ca)

Tặng Người Trai Trẻ

Gặp nhau đây, ai cũng ôm sầu tủi
Bên Động Đình gió cuốn lá thu bay
Rượu ly bôi ta hãy uống cho say
Ngân nga hát giữa lầu khuya trăng chiếu

SongNguyễn HànTú
unnamed

贈 錢 徵 君 少 陽
白 玉 一 杯 酒
綠 楊 三 月 時
春 風 餘 幾 日
兩 鬢 各 成 絲
秉 燭 惟 須 飲
投 竿 也 未 遲
如 逢 渭 川 獵
猶 可 帝 王 師
李 白Tặng Tiền Trưng Quân Thiếu Dương (tặng Trưng quân Tiền Thiếu Dương)

Bạch ngọc nhất bôi tửu (một chén ngọc trắng đầy rượu)
Lục dương tam nguyệt thì (dương liễu xanh đang độ tháng ba)
Xuân phong dư kỷ nguyệt (gió xuân còn được vài ngày nữa)
Lưỡng mấn các thành ti ( cả hai mái tóc đã thành tơ [trắng])
Bỉnh chúc duy tu ẩm (chỉ nên chong đuốc mà uống rượu)
Đầu can dã vị trì (ôm cần câu [bây giờ] vẫn chưa muộn)
Như phùng Vị Xuyên lạp (vì nếu như lại gặp tích đi săn ở Vị Xuyên)
Do khả đế vương sư (thì [ông] vẫn có khả năng làm thầy các bậc đế vương)

Lý Bạch

Ghi chú: Tích xưa (hơn 1000 năm trước Tây lịch) Khương Tử Nha hơn 70 tuổi
vẫn hàn vi, ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Tây Bá Xương đi săn ngang qua,
đôi bên tương đắc. Tử Nha giúp cha con Tây Bá Xương diệt được vua
Trụ nhà Ân, mở ra nhà Chu.

(tặng Trưng quân Tiền Thiếu Dương)

(một chén ngọc trắng đầy rượu)
(dương liễu xanh đang độ tháng ba)
(gió xuân còn được vài ngày nữa)
( cả hai mái tóc đã thành tơ [trắng])
(chỉ nên chong đuốc mà uống rượu)
(ôm cần câu [bây giờ] vẫn chưa muộn)
(vì nếu như lại gặp tích đi săn ở Vị Xuyên)
(thì [ông] vẫn có khả năng làm thầy các bậc đế vương)

Tặng Trưng Quân Tiền Thiếu Dương

Cùng cạn rượu trong chén tình bạch ngọc
Trời tháng ba cành liễu rủ xanh lơ
Gió mùa xuân còn vài bữa nhởn nhơ
Dù mái tóc đã như tơ trắng muốt
Bên chén rượu, màn đêm, chong ngọn đuốc
Chẳng muộn gì cần câu thả dây buông
Như Vị Xuyên, nếu gặp được tương đồng
Vẫn dư sức đem tài phò thánh thượng

SongNguyễn HànTú

unnamed

贈 汪 倫
李 白 乘 舟 將 欲 行
忽 聞 岸 上 踏 歌 聲
桃 花 潭 水 深 千 尺
不 及 汪 倫 送 我 情
李 白Tặng Uông Luân

Lý Bạch thừa chu tương dục hành
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh
Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích
Bất cập Uông Luân tống ngã tình

Lý Bạch

(tặng Uông Luân)

(Lý Bạch lên thuyền sắp sửa đi)
(chợt nghe thấy trên bờ có tiếng hát và tiếng nhịp chân)
(đầm Đào Hoa nước sâu ngàn thước)
(không bằng tình của Uông Luân đi tiễn ta)

Tặng Uông Luân

Lý lên thuyền tính ra đi
Bỗng lời hát tiễn sầu bi não nùng
Đầm Đào sâu có vô cùng
Cũng không sánh được tấm lòng Uông Luân

SongNguyễn HànTú

unnamed

Nguyễn Tâm HànNguyenTamHan # Tuesday, December 30, 2008 9:21:57 PM

白 居 易

早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動
鄰 杵 秋 聲 發
獨 向 檐 下 眠
覺 來 半 床 月

Bạch Cư Dị

Tảo thu độc dạ

Tỉnh ngô lương diệp động
Lân chử thu thanh phát
Độc hướng thiềm hạ miên
Giác lai bán sàng nguyệt

(buổi đầu thu, đêm ngủ một mình)

(cây ngô đồng bên bờ giếng bị gió lạnh lay động)
(tiếng chày bên hàng xóm vọng lên trong trời thu)
(một mình nằm ngủ dưới mái hiên)
(tỉnh dậy thấy ánh trăng soi nửa giường)

*

Đêm Cô Đơn Đầu Thu

Cành ngô bên giếng lung lay
Ì ầm bên xóm tiếng chày gọi thu
Dưới hiên tỉnh giấc phù du
Nửa giường nhòa nhạt, mơ hồ ánh trăng

SongNguyễn HànTú 

unnamed

早 秋 京 口 旅 泊
贈 張 侍 御
移 家 避 寇 逐 行 舟
厭 見 南 徐 江 水 流
吳 地 征 徭 非 舊 日
秣 陵 凋 弊 不 勝 秋
千 家 閉 戶 無 砧 杵
七 夕 何 人 望 斗 午
只 有 同 時 驄 馬 客
偏 題 尺 牘 問 窮 愁
李 嘉 祐Tảo Thu Kinh Khẩu Lữ Bạc
Tặng Trương Thị Ngự

Di gia tị khấu trục hành chu
Yếm khán Nam Từ giang thủy lưu
Ngô địa chinh dao phi cựu nhật
Muội Lăng điêu tệ bất thăng thu
Thiên gia bế hộ vô châm chử
Thất tịch hà nhân vọng Đẩu, Ngưu
Chỉ hữu đồng thời thông mã khách
Thiên đề xích độc vấn cùng sầu

Lý Gia Hựu
(chớm thu, xa nhà, thuyền đậu tại Kinh Khẩu,
viết tặng quan Thị ngự họ Trương)

(gia đình bỏ nhà đi chạy giặc bằng thuyền)
(nhìn mãi nước trôi ở Nam Từ này mà phát ngán)
(ở đất Ngô [cũ] việc thu thuế và bắt phu khác thời trước)
(vùng Muội Lăng điêu tàn và tồi tệ chẳng có vẻ thu tí nào)
(nhà nhà đóng cửa không nghe tiếng chày giặt quần áo)
(đêm 7 tháng 7 đâu còn ai đứng ngắm sao Đẩu, sao Ngưu)
(chỉ có người cưỡi ngựa lông đốm trong lúc này)
(là biên thư hỏi thăm [ta] về nỗi buồn cùng tận mà thôi)

Ghi chú: Kinh Khẩu, Nam Từ, Muội Lăng đều là tên đất của tỉnh Giang Tô,
xưa thuộc nước Ngô thời Xuân Thu.

Sớm Thu Đậu Thuyền Nơi Kinh Khẩu
Tặng Quan Thị Ngự Họ Trương

Theo sông nước thả thuyền đi lánh nạn
Chốn Nam Từ chán cảnh nước luân lưu
Nơi đất Ngô sưu thuế khác xưa nhiều
Muội Lăng trước cảnh thu buồn tan tác
Nhà kín cổng, vắng tiếng chày đập giặt
Ngắm Đẩu, Ngưu ngày song thất ai người ?
Còn bạn xưa lưng ngựa đốm mà thôi
Lời thăm hỏi chia nỗi sầu chất ngất

SongNguyễn HànTú

unnamed

早 秋 寄 題
天 竺 靈 隱 寺
峰 前 峰 後 寺 新 秋
絕 頂 高 窗 見 沃 州
人 在 定 中 聞 蟋 蟀
鶴 曾 棲 處 掛 猿 猴
山 鐘 夜 度 空 江 水
汀 月 寒 生 古 石 樓
心 憶 懸 帆 身 未 遂
謝 公 此 地 昔 年 遊
賈 島Tảo Thu Ký Đề
Thiên Trúc Linh Ẩn Tự

Phong tiền phong hậu tự tân thu
Tuyệt đỉnh cao song kiến Ốc châu
Nhân tại định trung văn tất suất
Hạc tằng thê xứ quải viên hầu
Sơn trung dạ độ không giang thủy
Thinh nguyệt hàn sinh cổ thạch lâu
Tâm ức huyền phàm thân vị toại
Tạ công thử địa tích niên du

Giả Đảo

(Đầu thu gửi bài về
chùa Thiên Trúc Linh Ẩn)

(cảnh núi ở phía trước chùa hay sau chùa cũng đều nhuốm vẻ thu mới)
(qua cửa sổ tầng cao nhất chùa nhìn thấy miền Ốc châu)
(người ngồi thiền nghe thấy dế kêu)
(chỗ hạc có lúc từng làm tổ nay khỉ vượn đang đu đưa)
(ban đêm tiếng chuông từ núi vọng qua bên kia sông)
(trăng trên bãi sông làm ngôi chùa cổ cất bằng đá lạnh thêm)
(lòng nhớ cánh buồm đi xa mà thân chưa toại)
(ông Tạ [Linh Vận] xưa kia đã từng đến thăm chốn này)

Đầu Thư Gửi Về Chùa

Vùng sau trưóc cảnh chùa đang Thu tới
Trên đỉnh cao nhìn rõ đến Ốc châu
Quanh người thiền văng vẳng tiếng dế kêu
Khỉ đu nhẩy chỗ cây xưa hạc nghỉ
Qua sông vắng vọng chuông đêm rền rĩ
Trăng rạng ngời khiến lầu đá lạnh thêm
Cánh buồm mơ nào đã được toại thân
Nơi đây trước Tạ Linh Công đã ghé

SongNguyễn HànTú

unnamed

早 秋 過 龍 武
李 將 軍 書
高 樹 蟬 聲 秋 巷 裡
朱 門 冷 靜 似 閑 居
重 裝 墨 畫 數 莖 竹
長 著 香 薰 一 架 書
語 笑 侍 兒 知 禮 數
吟 哦 野 老 任 狂 疏
就 中 愛 讀 英 雄 傅
又 說 功 勛 恐 不 如
王 建Tảo Thu Quá Long Vũ
Tướng Quân Thư Trai

Cao thụ thuyền thanh thu hạ lý
Chu môn lãnh tĩnh tự nhàn cư
Trọng trang mặc họa sổ hành trúc
Trường trước hương huân nhất giá thư
Ngữ tiếu thị nhi tri lễ sổ
Ngâm nga dã lão nhiệm cuồng sơ
Tựu trung ái độc anh hùng truyện
Hựu thuyết công huân khủng bất như

Vương Kiến
(Đầu thu qua nhà sách
của Tướng quân họ Lý)

(trong xóm có cây cao và tiếng ve sầu trong tiét thu)
([có ngôi nhà] cửa son vắng lặng như nơi ở nhàn)
([có] bức tranh thủy mặc trang trọng vẽ vài cành trúc)
([và] một kệ sách dài ngát hương thơm)
(đứa tớ trai tươi cười nhưng lễ độ)
(ông lão cùng xóm mặc sức ngâm nga theo hứng thú)
(tóm lại [họ Lý] thích đọc các truyện về các anh hùng)
(lại nói công trạng [của ông] e rằng không bằng họ)

Đầu Thu Qua Nhà Sách
Của Tướng Quân Lý Long Vũ

Trong ngõ hẹp tiếng ve thu rầu rĩ
Cửa vắng tanh tựa như chốn nhàn cư
Nét đậm tô vài nhánh trúc lơ thơ
Nơi kệ sách tỏa hương trầm ngào ngạt
Ngay kẻ hầu cũng ôn hòa lễ phép
Lão hủ quê lòng được thỏa cuồng ngông
Người đam mê những pho chuyện anh hùng
Vẫn e ngại công còn thua người trước

SongNguyễn HànTú
unnamed

早 朝 大 明 宮
銀 燭 朝 天 紫 陌 長
禁 城 春 色 曉 蒼 蒼
千 條 弱 柳 垂 青 瑣
百 囀 流 鶯 繞 建 章
劍 偑 聲 隨 玉 墀 步
衣 冠 身 惹 御 爐 香
共 沐 恩 波 鳳 池 上
朝 朝 染 幹 侍 君 王
賈 至Tảo Triều Đại Minh Cung

Ngân chúc triều thiên tử mạch trường
Cấm thành xuân sắc hiểu thương thương
Thiên điều nhược liễu thùy Thanh Tỏa
Bách chuyển lưu oanh nhiễu Kiến Chương
Kiếm bội thanh tùy ngọc trì bộ
Y quan thân nhạ ngự lô hương
Cộng mộc ân ba Phụng Trì thượng
Triêu triêu nhiễm cán thị quân vương

Già Chí

(buổi chầu sáng sớm tại cung Đại Minh)

(đi chầu trên đường dài màu tím có đuốc bạc soi sáng)
(buổi sáng sớm trong cung cấm vẻ xuân xanh tươi)
(cả ngàn nhánh liễu mềm rủ xuống cung Thanh Tỏa)
(hàng trăm chim oanh vừa bay vừa hót quanh cung Kiến Chương)
(kiếm đeo kêu lách cách theo bước chân trên thềm ngọc)
(áo mũ mang trên mình đượm hương thơm từ lò [trầm] trong cung)
(cùng được tắm gội sóng ơn [vua] trong ao Phựng [Hoàng])
([riêng ta] sáng sáng đứng chấm bút vào mực hầu vua)

Buổi Chầu Sớm Tại Cung Đại Minh

Lối vào chầu, đuốc soi đướng ánh tía
Nơi Cấm Thành buổi sớm cảnh thanh tao
Ven cung Thanh ngàn liễu rủ xanh mầu
Quanh điện Kiến tiếng chim oanh đua hót
Vang thềm ngọc gươm khua theo nhịp bước
Áo mũ vương hương lò ngự thơm nồng
Ao Phụng Trì được gội sóng ân hồng
Mỗi buổi sớm bút nghiên hầu Thánh Thượng

Trên lối tím
Sáng đi chầu tay mang đuốc bạc
Cảnh Cấm Thành buổi xuân sớm đan thanh
Thanh Tỏa cung ngàn liễu rủ màu xanh
Tiếng oanh hót líu lo nơi điện Kiến
Trên thềm ngọc
Theo bước chân tiếng khua gươm kiếm
Mũ áo chầu quyện trong khói hương trầm
Được thọ ơn nơi ao Phượng quanh năm
Sắp nghiên bút buổi mai hầu Thánh thượng

SongNguyễn HànTú

unnamed

雜 詩
聞 道 黃 龍 戍
頻 年 不 解 兵
可 憐 閨 裏 月
長 在 漢 家 營
少 婦 今 春 意
良 人 作 夜 情
誰 能 將 旗 鼓
一 為 取 龍 城
沈 佺 期Tạp Thi

Văn đạo Hoàng Long thú
Tần niên bất giải binh
Khả liên khuê lý nguyệt
Trường tại Hán gia dinh
Thiếu phụ kim xuân ý
Lương nhân tạc dạ tình
Thùy năng tương kỳ cổ
Nhất vi thủ Long thành

Thẩm Thuyên Kỳ

(thơ vụn vặt)

(nghe nói quân trú phòng ở Hoàng Long)
([chiến đấu] đã nhiều năm mà chưa được trở về)
(đáng thương cho vầng trăng chiếu trên khuê phòng)
(cũng cứ chiếu mãi trên doanh trại quân nhà Hán)
(ý nghĩ của người vợ trẻ ngày xuân hôm nay)
(cũng là tình cảm của người chồng tối hôm qua)
(ai [tướng giỏi nào]có thể phất cờ gióng trống [cầm quân])
(chỉ một trận lấy ngay được thành Long?)

Tạp Thơ

Nghe đã trải mấy mùa thu tàn úa
Thành Hoàng Long lính thú chẳng được về
Mảnh trăng vàng cứ biền biệt phòng khuê
Lơ lửng mãi nơi trại quân nhà Hán
Đời cô phụ mùa xuân buồn vô hạn
Đâu khác gì lòng lính trẻ xa nhà
Ai vị tình gióng cờ trống xông pha
Vì đại nghĩa chiếm thành Long giải cứu

SongNguyễn HànTú
unnamed

雜 詩
君 自 故 鄉 來
應 知 故 鄉 事
來 日 綺 窗 前
寒 梅 著 花 未
王 維Tạp Thi

Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai trước hoa vị

Vương Duy

(thơ vặt)

(anh từ quê nhà lại đây)
(tất phải biết việc ở quê nhà)
(hôm anh đi, ở trước khung cửa sổ có che màn lụa [nhà tôi])
([anh có thấy] cây mai chịu được lạnh đã nở bông chưa?)

Thơ Vặt

Anh vừa từ quê tới
Xin được hỏi thăm qua
Nhà tôi trước cửa sổ
Hàn mai đã trổ hoa ?

SongNguyễn HànTú

unnamed

西 宮 秋 怨
芙 蓉 不 及 美 人 粧
水 殿 風 來 珠 翠 香
卻 恨 含 情 掩 秋 扇
空 懸 明 月 待 君 王
王 昌 齡Tây Cung Oán

Phù dung bất cập mỹ nhân trang
Thủy điện phong lai châu thúy hương
Khước hận hàm tình yểm thu phiến
Không huyền minh nguyệt đãi quân vương

Vương Xương Linh

(nỗi hờn dỗi [của cung nữ] ở Tây Cung trong mùa thu)

(hoa phù dung không bì được với người đẹp đã trang điểm)
(từ Thủy điện, gió đưa đi mùi thơm quý phái)
(đang hờn dỗi vì niềm riêng nên lấy quạt che mặt)
(trăng thu sáng, chờ vua hoài [mà không đến])

Mùa Thu Hờn Giận Trong Cung Tây

Dù nét đẹp phù dung
Thua vẻ nàng kiều diễm
Mùi hương thoảng lan tràn trong Thủy điện
Tủi thân ngà…quạt che mặt…trời thu
Mơ long nhan đêm trăng dãi mơ hồ

SongNguyễn HànTú
unnamed

西 湖 晚 歸
柳 湖 松 島 蓮 花 寺
晚 動 歸 橈 出 道 場
盧 橘 子 低 山 雨 重
栟 櫚 葉 戰 水 風 涼
煙 波 淡 蕩 搖 空 碧
樓 殿 參 差 倚 夕 陽
到 岸 請 君 回 首 望
蓬 萊 宮 在 海 中 央
白 居 易Tây Hồ Vãn Quy

Liễu hồ tùng đảo Liên Hoa tự
Vãn động quy nhiêu xuất đạo trường
Lư quất tử đê sơn vũ trọng
Tinh lư diệp chiến thủy phong lương
Yên ba bạc đãng dao không bích
Lâu điện sâm si ỷ tịch dương
Đáo ngạn thỉnh quân hồi thủ vọng
Bồng Lai cung tại hải trung ương

Bạch Cư Dị

(về từ Tây Hồ trong buổi chiều)

([từ giã] hồ liễu, đảo thông và chùa Liên Hoa)
(buổi chiều đưa mái chèo dời đạo trường ra về)
(mưa lớn trên núi làm các trái quít [trở nên] nặng trĩu)
(lá cây tinh lư chống chọi với cái lạnh của gió sông)
(khói sóng bàng bạc lay động vẻ xanh của không gian)
(lâu đài cung điện cao thấp chìm trong nắng chiều)
(tới bờ xin bạn hãy quay đầu nhìn lại)
([rõ là cảnh tiên] cung Bồng Lai đang ở giữa biển [hồ])

Chiều Về Từ Hồ Tây

Thông reo
Liễu rủ ven chùa
Đạo trường từ tạ
Nhẹ khua mái chèo
Mưa làm quất trĩu nặng nhiều
Lá tinh phần phật gió chiều vi vu
Lênh đênh khói sóng mịt mờ
Nghiêng nghiêng lầu điện so le bóng tà
Ngoảnh đầu trông lại xa xa
Cảnh như nguyệt điện nguy nga trên trời

SongNguyễn HànTú
unnamed

西 施 石
西 施 昔 日 洗 紗 津
石 上 青 苔 思 殺 人
一 去 姑 蘇 不 復 返
岸 旁 棑 李 為 誰 春
樓 穎Tây Thi Thạch

Tây Thi tích nhật tẩy sa tân
Thạnh thượng thanh đài tứ sát nhân
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản
Ngạnbàng đào lý vị thùy xuân

Lâu Dĩnh

(đá Tây Thi)
(ngày xưa Tây Thi giặt lụa ở bến sông này)
(rêu xanh trên những tảng đá ở đó làm người ta tưởng nhớ muốn chết)
(một khi nàng đã đến Cô Tô rồi thì không về nữa)
([chẳng biết] những cây đào và mận ở trên bờ còn xuân sắc với ai?)

Phiến đá Tây Thi

Nhớ ai giặt lụa ven sông
Nàng đi phiến đá rêu phong phủ đầy
Cô Tô gieo nhớ phương này
Lý đào đứng đó còn say tình nàng

SongNguyễn HànTú
unnamed

斃 驢
蹇 驢 秋 斃 瘞 荒 田
忍 把 敲 吟 舊 竹 鞭
三 尺 桐 輕 背 殘 月
一 條 藤 瘦 卓 寒 煙
通 吳 白 浪 寬 圍 國
倚 蜀 青 山 峭 到 天
如 畫 海 門 搘 肘 望
阿 誰 教 買 釣 漁 船
李 洞Tễ Lư

Kiển lư thu tễ ế hoang điền
Nhẫn bả xao ngâm cựu trúc tiên
Tam xích đồng khinh bối tàn nguyệt
Nhất điều đằng sấu trác hàn yên
Thông Ngô bạch lãng khoan vi quốc
Ỷ Thục thanh sơn tiễu đáo thiên
Như họa hải môn chi trửu vọng
A thùy giao mãi điếu ngư thuyền

Lý Động

(con lừa gục chết)

(con lừa mệt quá lăn ra chết trong mùa thu được chôn ở cánh đồng hoang)
(nỡ nào còn dùng cây roi tre cũ mà gõ nhịp ngâm thơ)
(cây ngô đồng cao ba thước dưới ánh trăng tàn)
(một nhánh dây mây khẳng khiu vươn lên từ khói lạnh)
([dòng sông] có sóng bạc chảy quanh co trong đất Ngô)
(núi xanh cao tới trời bên xứ Thục)
(chống tay ngắm cửa biển đẹp như tranh)
(ai đã khuyên ta mua chiếc thuyền câu?)

Con Lừa Chết

Con lừa già gục chết
Giữa mùa thu mộ lấp ruộng hoang
Ta tâm đâu làm được
Cầm roi xưa ngâm vịnh mơ màng
Nhìn quanh chỉ thấy
Bóng ngô đồng ngả theo ánh trăng tan
Thân mây gầy guộc
Nhô cao giữa khói lạnh lan tràn
Đã biết:
Làn sóng bạc qua Ngô vây không kín đất
Rặng núi xanh nương Thục, cao ngất đỉnh trời
Lặng nhìn cửa biển tuyệt vời
Thuyền câu một mảnh, ai người khuyên ta

SongNguyễn HànTú

unnamed

石 頭 城
山 圍 故 國 周 遭 在
潮 打 空 城 寂 寞 回
淮 水 東 邊 舊 時 月
夜 深 還 過 女 牆 來
劉 禹 錫Thạch Đầu Thành

Sơn vi cố quốc chu tao tại
Triều đả không thành tịch mịnh hồi
Hoài thủy đông biên cựu thời nguyệt
Dạ thâm hoàn quá nữ tường lai

Lưu Vũ Tích
(thành Thạch Đầu)

(núi non bao bọc nước cũ vẫn còn thấy nơi đây)
(nước triều vỗ vào bờ thành bỏ hoang vẫn lặng lẽ về)
(nay canh khuya vẫn vượt tường [chiếu vào trong thành])

Ghi chú: Thạch Đầu thành là nơi Tôn Quyền xưng đế thời Tam Quốc, nay di tích vẫn còn trong thành phố Nam Kinh.

Thành Thạch Đầu

Đất nước cũ núi bao quanh còn đó
Sóng vỗ thành vẫn năm tháng rì rào
Hướng đông Hoài vầng trăng sáng ngày nào
Vẫn ló rạng trên lối xưa tường cũ

SongNguyễn HànTú

unnamed

石 魚 湖 上 醉 歌 石 魚 湖 似 洞 庭
夏 水 欲 滿 君 山 青
山 為 樽 水 為 沼
酒 徒 歷 歷 坐 洲 島
長 風 連 日 作 大 浪
不 能 廢 人 運 酒 舫
我 持 長 瓢 坐 巴 邱
酌 飲 四 座 以 散 愁
元 結Thạch Ngư Hồ Thượng Túy Ca Thạch Ngư hồ tự Động Đình
Hạ thủy dục mãn Quân sơn thanh
Sơn vi tôn, thuỷ vi chiểu
Tửu đồ lịch lịch tọa châu đảo
Trường phong liên nhật tác đại lãng
Bất năng phế nhân vận tửu phảng
Ngã trì trường biều tọa Ba Khâu
Chước ẩm tứ tòa dĩ tán sầu

Nguyên Kết
(hát lúc say trên hồ Thạch Ngư)

(hồ Thạch Ngư ví như hồ Động Đình)
(mùa hè nước tràn đầy, núi Quân xanh um)
(núi là chén [rượu], nước là ao [rượu])
(dân nhậu ngồi quây quần trên bãi cát của đảo)
(gió thổi suốt ngày tạo nên sóng lớn trên hồ)
(nhưng không cản nổi người chèo thuyền chở rượu tới)
(ta nâng bầu rượu dài ngồi trên phiến đá Ba Khâu)
(rót rượu mời 4 bên uống để tiêu tán nỗi buồn)

Say Hát Trên Hồ Thạch Ngư

Thạch Ngư nào khác Động Đình
Hè dâng nước ngập
Núi Quân xanh
Rượu ao, chén núi làm sao cạn
Giữa bãi dẫy đầy lũ Lưu Linh
Gió lồng lộng
Mặt hồ dậy sóng
Rượu vẫn lềnh khênh, dễ bỏ sao
Ôm bầu trên đỉnh Ba Khâu
Bốn phương mời nhé giải sầu giùm ta

SongNguyễn HànTú
unnamed

石 城
石 城 昔 為 莫 愁 鄉
莫 愁 魂 散 石 城 荒
江 人 依 舊 掉 舴 艋
江 岸 還 是 飛 鴛 鴦
帆 去 帆 來 風 浩 渺
花 開 花 謝 春 悲 涼
煙 濃 草 遠 望 不 盡
千 古 漢 陽 間 夕 陽
鄭 谷Thạch Thành

Thạch thành tích vi Mạc Sầu hương
Mạc Sầu hồn tán Thạch thành hoang
Giang nhân y cựu trạo tạc mãnh
Giang ngạn hoàn thị phi uyên ương
Phàm khứ phàm lai phong hạo diễu
Hoa khai hoa tạ xuân bi lương
Yên nùng thảo viễn vọng bất tận
Thiên cổ Hán Dương gian tịch dương

Trịnh Cốc
(thành Thạch)
(thành Thạch ngày xưa là quê quán của Mạc Sầu)
(khi hồn của Mạc Sầu tiêu tán thì thành Thạch cũng hoang tàn)
(người trên sông vẫn chèo ghe xuồng như trước)
(trên bờ sông uyên ương bay)
(ghe buồm tới, ghe buồm lui trong gió lộng )
(hoa nở hoa tàn vẻ xuân buồn bã và lạnh lẽo)
(sương khói dầy đặc, bãi cỏ chạy xa nhìn không hết)
(ngàn năm Hán Dương vẫn chìm trong chiều tà)

Ghi chú: Mạc Sầu là một phụ nữ thời Nam Bắc Triều, có nhan sắc và giỏi hát ca dao.
Thạch Thành tọa lạc tại huyên Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay.

Thạch Thành

Thạch thành quê cũ Mạc Sầu
Hồn tan, thành cũng biển dâu hoang tàn
Dập dìu thuyền vẫn dọc ngang
Uyên ương bay lượn từng đàn ven sông
Cánh buồm lộng gió bềnh bồng
Hoa tàn rồi nở xuân lòng thê lương
Khói dầy cỏ mọc ngập đường
Bóng chiều mãi phủ Hán Dương mơ màng

SongNguyễn HànTú

unnamed

採 蓮 曲
菱 葉 縈 波 荷 颭 風
荷 花 深 處 小 船 通
逢 郎 欲 語 低 頭 笑
碧 玉 搔 頭 落 水 中
白居易Thái Liên Khúc
Lăng diệp oanh ba hà chiểm phong
Hà hoa thâm xứ tiểu thuyền thông
Phùng lang dục ngữ đê đầu tiếu
Bích ngọc tao đầu lạc thủy trung

Bạch Cư Dị

(khúc hát Hái Sen)

(sóng dập dềnh lá ấu, gió lay động lá sen)
(ghe nhỏ lách sâu vào chỗ có nhiều hoa sen)
(gặp chàng [thiếp] toan nói [nhưng chỉ] cúi đầu mỉm cười)
(ngọc xanh cài trên đầu [bỗng] rơi xuống nước)

Bài Ca Hái Sen

Lá hoa theo sóng đong đưa
Thuyền con len lỏi nhẹ khua mái chèo
Thấy chàng chúm chím nhìn theo
Vô tình trâm rớt chìm vào hồ sen

SongNguyen HanTu

unnamed

採 蓮 曲

若 耶 溪 傍 採 蓮 女

笑 隔 荷 花 共 人 語
日 照 新 粧 水 底 明
風 飄 香 袂 空 中 舉
岸 上 誰 家 遊 冶 郎
三 三 五 五 映 垂 楊
紫 騮 嘶 入 落 花 去
見 此 踟 躕 空 斷 腸李 白

Thái Liên Khúc

Nhược Da khê bạng thái liên nữ
Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ
Nhật chiếu tân trang thủy để minh
Phong phiêu hương duệ không trung cử

Ngạn thượng thùy gia du dã lang
Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương
Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ
Kiến thử tri trù không đoạn trường

Lý Bạch

(khúc ngâm hái sen)

(các cô gái hái hoa sen bên suối Nhược Da)
(cách lùm hoa sen có tiếng cười và nói)
(nắng soi [khuôn mặt]vừa trang điểm [phản chiếu] ngời đáy nước)
(gió đưa tà áo thơm bay phất phơ trong không gian)

(trên bờ có đám con trai chuyên ăn chơi nhà ai)
(túm năm tụm ba dưới rặng thùy dương nắng chiếu)
(ngựa đỏ bờm tía hí vang chạy vào gần đám hoa [sen] rụng)
(thấy [các cô gái] lòng ngẩn ngơ không muốn đi)

Khúc Ca Hái Sen

Mấy thiếu nữ hái sen nơi Nhược Da
Tiếng cười đùa hòa lẫn tiếng hoa reo
Ngọc điểm trang lồng bóng nước ánh chiếu
Mùi hương thoảng
Gió bay tà áo

Nhởn nhơ giỡn trên bờ nhiều trai trẻ
Tụm năm ba đứng dưới ánh thùy dương
Ngựa hí vang lối hoa rụng ngập đường
Dùng dằng trước cảnh, tình…lòng ngơ ngẩn

SongNguyễn HànTú
unnamed

歎 庭 前 甘 菊 花
前 甘 菊 移 時 晚
青 蕊 重 陽 不 堪 摘
明 日 蕭 條 醉 盡 醒
殘 花 爛 漫 開 何 益
蘺 邊 野 外 多 眾 芳
采 擷 細 瑣 升 中 堂
念 茲 空 長 大 枝 葉
結 根 失 所 纏 風 霜
杜 甫Thán Đình Tiền Cam Cúc Hoa

Đình tiền cam cúc di thời vãn
Thanh nhụy Trùng dương bất kham trích
Minh nhật tiêu điều túy tận tỉnh
Tàn hoa lạn mạn khai hà ích
Ly biên dã ngoại đa chúng phương
Thái hiệt tế tỏa thăng trung đường
Niệm tư không trường đại chi diệp
Kết căn thất sở triền phong sương

Đỗ Phủ
(than cho loài cam cúc trước sân)

(cây cam cúc ở trước sân trái mùa nở hoa muộn)
(nhụy còn xanh nên tiết Trùng dương chưa hái được)
(hôm sau tỉnh rượu nhìn thì thấy cảnh xác xơ)
(hoa tàn úa tả tơi thì còn dùng được việc gì nữa !)
(bên ngoài hàng giậu, ngoài đồng cỏ thiếu gì các hoa thơm)
(ra mà hái các bông hoa nhỏ bé cắm trưng ở nhà giữa)
(xét ra cành và lá cam cúc không dài và to được)
(vì được trồng nơi đất xấu lại bị sương gió thường xuyên)

Than Cho Loài Cam Cúc Trước Sân

Cây cam cúc hoa trái mùa nở muộn
Ngày Trùng dương chưa ngắt kịp nụ xanh
Sáng tỉnh ra đã xơ xác tan tành
Nở chi vậy, nhú ra là tàn tạ ? !
Ngoài ruộng đồng lắm hoa thơm cỏ lạ
Góp thâu về cắm cho thấy vui nhà
Lá như cành cam cúc chẳng to ra
Mọc đất xấu, gặp gió sương cằn cỗi

SongNguyễn HànTú
unnamed

嘆 花
自 是 尋 芳 去 較 遲
不 須 惆 悵 怨 芳 時
狂 風 落 盡 深 紅 色
綠 葉 成 陰 子 滿 枝
杜 牧Thán hoa

Tự thị tầm phương khứ giảo trì
Bất tu trù trướng oán phương thì
Cuồng phong lạc tận hồng thâm sắc
Lục diệp thành âm tử mãn chi

Đỗ Mục

(than tiếc cho hoa)

(bởi vì [ta] tìm [ngửi] hương hoa thơm hơi chậm trễ)
([ta] nên chẳng oán hờn hoa lúc hoa còn thơm)
(gió mạnh đã thổi rụng tất cả các sắc hồng)
(lá xanh thành lá xám, trên cành đầy quả non)

Tiếc Thương Hoa

Tìm hương thì đã qua thời
Nào đâu có oán hết rồi mùa thơm
Cánh hồng gió bạt chẳng còn
Lá xanh mơn mởn, quả non đầy cành

SongNguyễn HànTú
unnamed

清 平 調 之 一
雲 想 衣 裳 花 想 容
春 風 拂 檻 露 華 濃
若 非 群 玉 山 頭 見
會 向 瑤 臺 月 下 逢
李 白Thanh Bình Điệu chi nhất

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần-Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao-đài nguyệt hạ phùng
Lý Bạch

(đìệu thơ lúc thanh bình – bài 1)

(xiêm y tưởng như mây [bay], dung mạo [đẹp] tưởng như hoa)
(gió xuân thổi qua hiên, sương móc đọng trên hoa)
(nếu chẳng phải đã gặp [nàng] ở đầu núi Quần Ngọc)
(thì tất đã gặp [nàng] ở dưới trăng khi đến Dao-Đài rồi)

Tiên Nương

Ẩn trong giải lụa mây thân diễm tuyệt
Hương hoa nồng theo gió quyện hiên sương
Quần Ngọc xưa chắc đã gặp tiên nương
Hay tại chốn Dao Đài trăng vằng vặc

SongNguyễn HànTú

unnamed

清 平 調 之 二
一 枝 紅 豔 露 凝 香
雲 雨 巫 山 枉 斷 腸
借 問 漢 宮 誰 得 似
可 憐 飛 燕 倚 新 妝
李 白Thanh Bình Điệu chi nhị
Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương
Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự
Khả lân Phi Yến ỷ tân trang

Lý Bạch
(Vần Điệu Lúc Thanh Bình – bài 2)

([nàng đẹp như] một đóa hồng còn đọng sương thơm ngát)
(nỗi nhớ cuộc mây mưa [trong mộng] trên núi Vu thật tầm thường)
(thử hỏi trong cung vua thời Hán có ai sánh bằng ?)
(khá thương cho Phi Yến vừa mới trang điểm [mà cũng không

Dương Quý Phi

Chao ôi thiên sắc diễm kiều
Như hoa hồng thắm đáng yêu vườn trời
Nát lòng Vân Vũ thần oai
Hỏi trong cung Hán ai người sánh ngang

SongNguyễn HànTú
unnamed

清 平 調 之 三
名 花 傾 國 兩 相 歡
常 得 君 王 帶 笑 看
解 釋 春 風 無 限 恨
沈 香 亭 北 倚 闌 干
李 白Thanh Bình Điệu chi tam

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan
Thường đắc quân vương đới tiếu khan
Giải thích xuân phong vô hạn hận
Trầm-Hương đình bắc ỷ lan can

Lý Bạch

(vần điệu lúc thanh bình – bài 3)

(hoa nổi tiếng và người đẹp nghiêng nước đều vui và tươi)
(thường được vua ngắm nghía với nụ cười)
(gió xuân đã cuốn tan đi tất cả sầu hận)
([khi nàng] đứng tựa lan can phía bắc đình Trầm Hương)

Điệu Thanh Bình 3

Khác chi hoa, nét trang đài
Quân vương trìu mến suốt ngày quẩn quanh
Gió xuân như cũng say tình
Quyện theo gót ngọc nơi đình Trầm Hương

SongNguyễn HànTú
unnamed

城 東 早 春
詩 家 清 景 在 新 春
綠 柳 纔 黃 半 未 勻
若 待 上 林 花 似 錦
出 門 俱 是 看 花 人
楊 巨 源Thành Đông Tảo Xuân

Thi gia thanh cảnh tại tân xuân
Lục liễu tài hòang bán vị quân
Nhược đãi Thượng Lâm hoa tự gấm
Xuất môn câu thị khán hoa nhân

Dương Cự Nguyên

(xuân đến sớm ở phía đông thành phố)

(cảnh đẹp đối với nhà thơ khi xuân mới về [là gì?])
([đó là khi] liễu xanh mới hé nở chừng một nửa các nụ hoa vàng)
(chứ chờ khi hoa ở vườn Thượng Lâm đã nở muôn màu [rồi])
(thì ra khỏi nhà chỉ còn là người đi xem hoa [tầm thường mà thôi])

Xuân Sớm Ở Phía Đông Thành Phố

Hồn thơ dào dạt buổi xuân về
Lúc mầu hoa liễu chửa vàng hoe
Đợi khi vườn Thượng hoa như gấm
Ra ngõ thảy đều tựa ngắm hoa

SongNguyễn HànTú

unnamed

聖 果 寺
路 自 中 峰 上
盤 回 出 薜 蘿
到 江 吳 地 盡
隔 岸 越 山 多
古 木 叢 青 藹
遙 天 浸 白 波
不 方 城 郭 近
鐘 磬 雜 笙 歌
釋 處 默Thánh Quả Tự

Lộ tự trung phong thướng
Bàn hồi xuất tệ la
Đáo giang Ngô địa tận
Cách ngạn Việt sơn đa
Cổ mộc tùng thanh ái
Dao thiên xâm bạch ba
Bất phương thành quách cận
Chung khánh tạp sanh ca

Thích Xử Mặc
(chùa Thánh Quả)

(đường đi bắt đầu bằng leo qua ngọn núi ở giữa)
(rồi đến một vùng bằng phẳng đầy cỏ tệ la)
(khi tới bờ sông là hết đất Ngô [cũ])
(qua bờ bên kia là các núi non của đất Việt [cũ])
(các cây cổ thụ đều xanh um và quen thuộc)
(cuối chân trời thấy có sóng bạc)
(bên dưới có thành quách ở gần)
(tiếng chuông, khánh [chùa] hòa với tiếng sênh và tiếng hát)

Chùa Thánh Quả

Lối mòn giữa núi leo lên
Cỏ la xanh mướt một thềm quanh co
Gặp sông là hết đất Ngô
Núi bên nước Việt nhấp nhô trập trùng
Xanh xanh cổ thụ như rừng
Mịt mờ sông nước mênh mông cuối trời
Dưới chân thành quách cao vời
Tiêng chuông khánh lẫn tiếng người đàn ca

SongNguyễn HànTú
unnamed

城 西 陂 泛 舟
青 蛾 皓 齒 在 樓 船
橫 笛 短 簫 悲 遠 天
春 風 自 信 牙 檣 動
遲 日 徐 看 錦 纜 牽
魚 吹 細 浪 搖 歌 扇
燕 蹴 飛 花 落 舞 筳
不 有 小 舟 能 盪 槳
百 壺 那 送 酒 如 泉
杜 甫Thành Tây Pha Phiếm Chu

Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền
Hoành địch đoản tiêu bi viễn thiên
Xuân phong tự tín nha tường động
Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên
Ngư xuy tế lãng dao ca phiến
Yến xúc phi hoa lạc vũ diên
Bất hữu tiểu thuyền năng đãng tưởng
Bách hồ na tống tửu như tuyền

Đỗ Phủ

(du thuyền trên hồ phía tây thành phố)

(trên thuyền lầu có gái mày xanh răng trắng bóng)
(tiếng sáo ngang, tiêu ngắn ai oán vang trời xa)
(gió xuân lay động cột buồm bằng gỗ quý cẩn ngà)
(mặt trời lặn từ từ chiếu trên đống dây cột thuyền bện bằng gấm vóc)
(cá phun nước tạo sóng nhỏ làm chao đảo cây quạt của cô đào hát)
(én bay theo hoa rơi lạc vào tiệc múa)
(nếu không có thuyền nhỏ bơi chèo theo)
(thì sao có hàng trăm bầu rượu rót ra như suối chảy)

Du Thuyền Trên Bến Tây Thành

Trên lầu thuyền gái mày thanh răng trắng
Sáo, tiêu buồn văng vẳng vọng trời xa
Gió mùa Xuân lay động cột buồm ngà
Nhìn dây gấm giữa trời chiều bóng ngả
Cá thổi sóng, quạt phẩy theo điệu múa
Én tung bay, hoa chao đảo rơi theo
Không thuyền con đẩy khua nhẹ mái chèo
Sao có được rượu tuôn như suối chảy

SongNguyễn HànTú
unnamed

十 六 夜 翫 月
舊 挹 金 波 爽
皆 傳 玉 露 秋
關 山 隨 地 闊
河 漢 近 人 流
谷 口 樵 歸 唱
孤 城 笛 起 愁
巴 童 渾 不 寐
半 夜 有 行 舟
杜 甫Thập Lục Dạ Ngoạn Nguyệt

Cựu ấp kim ba sảng
Giao truyền ngọc lộ thu
Quan san tùy địa khoát
Hà Hán cận nhân lưu
Cốc khẩu tiều quy xướng
Cô thành địch khởi sầu
Ba đồng hồn bất mị
Bán dạ hữu hành chu

Đỗ Phủ
(ngắm trăng đêm muời sáu)

(nơi có lúc từng trút xuống các làn sóng vàng sáng lóng lánh)
(nay đọng các hạt móc thu trong như ngọc)
(các cửa ải dựng lên nơi các vùng đất bao la)
(dải Ngân Hà như ngay trên đầu người ta)
(tiều phu ca hát trên đường về từ hẻm núi)
(tiếng sáo buồn cất lên từ thành lũy chơ vơ)
(thiếu niên ở đất Ba cùng không ngủ)
(nửa đêm [rủ nhau] chèo thuyền đi [rong chơi]}

Ngắm Trăng Mưới Sáu

Như ấp ủ sóng vàng từ muôn thủa
Nghe âm vang thu móc ngọc giăng đầy
Chốn quan san bàng bạc khắp đó đây
Dòng sông bạc dường sát kề nhân thế
Hẻm núi về giọng bác tiều vui vẻ
Trên cô thành tiêu nức nở, véo von
Nơi kẽm Ba suốt đêm mắt chập chờn
Thuyền lặng lẽ khua chèo đêm sông vắng

SongNguyễn HànTú

unnamed

十 七 夜 對 月
秋 月 仍 圓 夜
江 村 獨 老 身
捲 簾 還 照 客
倚 杖 更 隨 人
光 射 潛 虯 動
明 翻 宿 鳥 頻
芓 齋 依 橘 柚
清 切 露 華 新
杜 甫Thập Thất Dạ Đối Nguyệt

Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ý trượng cánh tùy nhân
Quang sạ tiềm cầu động
Minh phiên túc điểu tần
Mao trai y quất dữu
Thanh thiết lộ hoa tân

Đỗ Phủ
(đêm mười bảy đối mặt trăng)

(đêm nay trăng thu vẫn còn tròn)
(xóm bên sông còn có một mình lão)
(vén màn lên, trăng chiếu ngay vào lão)
(lão chống gậy đi, trăng vẫn theo bên)
(ánh trăng rọi làm rồng nhỏ ẩn [dưới sông] động đậy)
(ánh sáng len lỏi làm chim đang ngủ nheo mắt)
(ngôi nhà cỏ sống nhờ quít và bưởi)
(sương móc mới đọng thật là trong và đẹp)

Ngắm Trăng Mười Bảy

Trăng còn tròn trĩnh lưng trời
Xóm bên sông một lão ngồi ngó lên
Vén rèm, trăng cợt cười nhìn
Nương cây gậy bước, trăng len theo người
Ánh vàng xuyên nước rồng ngoi
Giật mình chim ủ giữa trời trăng thanh
Vườn cây quanh nếp nhà tranh
Hạt sương móc mới long lanh ánh vàng

SongNguyễn HànTú

unnamed

七 夕
銀 燭 秋 光 冷 畫 屏
輕 羅 小 扇 撲 流 螢
天 階 夜 色 涼 如 水
臥 看 牽 牛 織 女 星
杜 牧Thất Tịch

Ngân chúc thu quang lãnh họa bình
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh

Đỗ Mục

(đêm 7 tháng 7 âm lịch)

(ngọn nến bạc trong đêm thu, bình phong vẽ lạnh lẽo)
(quạt lụa nhỏ, nhẹ, xua đuổi đom đóm đang bay)
(trên bầu trời, màn đêm mát như nước)
(nằm ngửa coi sao Khiên Ngưu và sao Chức nữ)

Đêm 7 tháng 7 Âm Lịch

Ánh nến bạc chiếu bình phong giá lạnh
Khua quạt con đuổi đom đóm bay ngang
Giữa màn đêm trời trong mát mơ màng
Nằm khểnh ngó sao Ngưu bên Chức Nữ

SongNguyễn HànTú

unnamed

侍 宴
皇 家 貴 主 好 神 仙
別 業 初 開 雲 漢 邊
山 出 盡 如 鳴 鳳 嶺
氾 成 不 讓 飲 龍 川
妝 樓 翠 幌 教 春 住
舞 閣 金 鋪 借 日 懸
侍 從 乘 輿 來 此 地
稱 觴 獻 壽 樂 鈞 天
沈 佺 期Thị Yến

Hoàng gia quý chủ hiếu thần tiên
Biệt nghiệp sơ khai Vân hán biên
Sơn xuất tận như Minh Phụng lãnh
Trì thành bất nhượng Ẩm Long xuyên
Trang lâu thúy hoảng giao xuân trú
Vũ các kim phô tá nhật huyền
Thị túng thừa dư lai thử địa
Xưng thương hiến thọ nhạc “Quân Thiên”

Thẩm Thuyên Kỳ
(hầu tiệc)

(con gái quý của nhà vua kính chuộng thần tiên)
(vừa mới dựng tòa nhà riêng bên bờ sông Vân)
(núi [giả] trải dài ra xa như dãy núi Minh Phụng)
(ao đào [uốn lượn] không kém sông Ẩm Long)
(màn màu xanh trên lầu trang điểm tạo nét xuân tươi)
(vàng bạc phô bày ở gác múa như mặt trời treo [rực rỡ])
(theo hầu xe vua tới nơi này)
(nâng chén chúc thọ hát bài “Quân Thiên”)

Hầu Tiệc

Yêu tiên cảnh có một nàng công chúa
Xây lâu đài bên cạnh bến sông Vân
Hòn giả sơn như Minh Phụng tuyệt trần
Nước uốn khúc sông Ẩm Long đâu kém
Trên màn thúy luôn nét xuân ẩn hiện
Vách dát vàng, gác múa trước dương quang
Theo hầu vua đứng trước cảnh ngỡ ngàng
Chén chúc thọ, bài “Quân Thiên” dâng tặng

SongNguyễn HànTú

unnamed

天 河
當 時 任 顯 晦
秋 至 最 分 明
縱 被 微 雲 掩
終 能 永 夜 清
含 星 動 雙 闕
伴 月 落 邊 城
牛 女 年 年 渡
何 曾 風 浪 生
杜 甫Thiên Hà

Đương thời nhiệm hiển hối
Thu chí tối phân minh
Túng bị vi vân yểm
Chung năng vĩnh dạ thanh
Hàm tinh động song khuyết
Bạn nguyệt lạc biên thành
Ngưu Nữ niên niên độ
Hà tằng phong lãng sinh

Đỗ Phủ

(dải Ngân Hà)

(tùy lúc [dải Ngân Hà] khi sáng khi mờ)
([nhưng] khi mùa thu tới thì sáng rất rõ)
(dù có bị đám mây nhỏ che phủ)
(nhưng rốt cuộc sẽ trong sáng suốt đêm)
([Ngân Hà] chứa đựng những sao có ảnh hưởng tới 2 kinh đô)
([Ngân Hà] làm bạn với trăng khi cùng hạ xuống gần quan ải)
(Ngưu Lang và Chức Nữ hàng năm qua sông)
(nhưng chưa hề nổi sóng gió bao giờ)

Ngân Hà

Tùy ngày tháng mờ tỏ
Thu sáng đẹp như mơ
Mây lang thang qua hết
Lại rực rỡ nên thơ

Hai đô sao long lanh
Bóng trăng xế ải thành
Chức Ngưu vui hội ngộ
Sóng gió lặng…yên bình

SongNguyễn HànTú
unnamed

天 末 懷 李 白
涼 風 起 天 末
君 子 意 如 何
鴻 雁 幾 時 到
江 湖 秋 水 多
文 章 憎 命 達
魑 魅 喜 人 過
應 共 冤 魂 語
投 詩 贈 汨 羅
杜 甫Thiên Mạt Hoài Lý Bạch

Lương phong khởi thiên mạt
Quân tử ý như hà
Hồng nhan kỷ thời đáo
Giang hồ thu thủy đa
Văn chương tăng mệnh đạt
Lị vị hỉ nhân qua
Ưng cộng oan hồn ngữ
Ðầu thi tặng Mịch La

Đỗ Phủ
(nhớ Lý Bạch [đang ở] nơi cuối trời)

([lúc] cơn gió mát nổi lên ở nơi cuối trời)
(cảm tưởng của ông như thế nào ?) .
(chim hồng, nhạn bay mấy ngày mới [đem thư] tới ?)
(mùa thu, nước [ở đấy] có tràn lên nhiều không?)
([nghiệp] văn chương làm người thành đạt mang lụy)
(yêu quái [dưới sông] hản là vui mừng khi có người [đi đò] qua) .
(hẳn là ông đang chuyện trò với oan hồn [của Khuất Nguyên] ?)
(và gieo thơ làm tặng xuống sông Mịch La ?)

Nhớ Lý Bạch

Lúc trời trong, gió mát
Chả biết bác nghĩ gì
Nhắn nhớ thương nhờ cánh nhạn mang đi
Nước có ngập lúc thu buồn da diết ?
Văn chương đạt thì mệnh đời ghen ghét
Loài quỉ vui khi thấy kẻ sa cơ
Chắc giờ này bác đang dệt lời thơ
Gởi tâm sự cùng hồn oan giòng Mịch

SongNguyễn HànTú
unnamed

天 津 橋 春 望
津 橋 春 水 浸 紅 霞
煙 柳 風 吹 拂 岸 斜
翠 輦 不 來 金 殿 閉
宮 鶯 銜 出 上 陽 花
雍 陶Thiên Tân Kiều Xuân Vọng

Tân kiều xuân thủy tẩm hồng hà
Yên liễu phong suy phất ngạn tà
Thúy liễn bất lai kim điện bế
Cung oanh hàm xuất Thượng Dương hoa

Ung Đào

(ngóng xuân trên cầu Thiên Tân)
(nước mùa xuân dưới cầu [Thiên] Tân nhuốm ánh ráng đỏ)
(gió thổi nghiêng liễu trong sương khói, phất phơ trên bờ)
(xe biếc [chở vua] không lại, điện vàng đóng cửa)
(chim oanh ngậm hoa trong cung Thượng Dương bay ra)

Ngóng Xuân Cầu Thiên Tân

Ráng hồng phủ ngập Thiên kiều
Liễu ôm sương khói hắt hiu ven bờ
Thúy xa đâu
Điện như tờ
Ngậm hoa cung Thượng chim vù bay ra

SongNguyễn HànTú

unnamed

少 年 行
五 陵 年 少 金 市 東
銀 鞍 白 馬 度 春 風
落 花 踏 盡 遊 何 處
笑 入 胡 姬 酒 肆 中
李 白Thiếu Niên Hành

Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị đông
Ngân an bạch mã độ xuân phong
Lạc hoa đạp tận du hà xứ
Tiếu nhập Hồ Cơ tửu tứ trung

Lý Bạch

(bài ca tuổi trẻ)

(chàng trẻ tuổi đất Ngũ Lăng tới phía đông chợ Kim)
(cưỡi ngựa trắng yên bạc lướt trong gió xuân)
(đạp bừa bãi lên các hoa rơi rụng [trên đường], đi đâu vậy?)
(tươi cười bước vào quán rượu Hồ Cơ)

Bài ca tuổi trẻ

Chợ Kim chàng tới từ Lăng
Ngựa, yên trắng muốt lướt phăng trên đường
Vó câu đạp xác hoa vương
Đi đâu … ? Hẳn ghé cô nương họ Hồ

SongNguyễn HànTúunnamed

聽 色 思 歸
故 園 黃 葉 滿 青 苔
夢 破 城 頭 曉 色 哀
此 夜 斷 腸 人 不 見
起 行 殘 月 影 徘 徊
顅 況Thính Giác Tư Quy

Cố viên hoàng diệp mãn thanh đài
Mộng phá thành đầu hiển giác ai
Thử dạ đoạn trường nhân bất kiên
Khởi hành tàn nguyệt ảnh bồi hồi

Cố Huống

(nghe tù và muốn trở về)

(vườn cũ [có lẽ] lá vàng đang phủ đầy lớp rêu xanh)
(chợt thức giấc vì tiếng tù và buồn bã ở đầu thành)
(đêm nay ta đau lòng mà ai có hay)
(ta nửa muốn về nửa muốn ở dưới ánh trăng sắp tàn)

Nghe tù-và muốn trở về

Lá vườn hẳn phủ rêu xanh
Tiếng tù-và vọng đầu thành thê lương
Niềm riêng một nỗi đoạn trường
Dùng dằng lòng mãi vương vương ở, về

SongNguyễn HànTú

unnamed

聽 蜀 僧 濬 彈
蜀 僧 抱 綠 綺
西 下 峨 眉 峰
為 我 一 揮 手
如 聽 萬 壑 松
客 心 洗 流 水
餘 響 入 霜 鐘
不 覺 碧 山 暮
秋 雲 暗 幾 重
李 白Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm

Thục tăng bão lục ỷ
Tây há Nga Mi phong
Vị ngã nhất huy thủ
Như thính vạn hác tùng
Khách tâm tẩy lưu thuỷ
Dư hưởng nhập sương chung
Bất giác bích sơn mộ
Thu vân ám kỷ trùng

Lý Bạch

(nghe thày tăng đất Thục tên là Tuấn gảy đàn)

(thày tăng đất Thục ôm đàn lục-ỷ)
(từ phía tây núi Nga-Mi xuống)
(vì ta mà vừa gảy một lát)
(nghe như có cả ngàn suối reo trong rừng thông)
([như có] làn nước mát chảy rửa sạch lòng khách)
(tiếng đàn hòa nhập tiếng chuông trong sương mù)
([mê mải nghe đàn] không biết chiều đã về trên núi xanh)
(và mây thu u ám đã giăng nhiều lớp)

Tiếng Đàn Sư Ông

Thục tăng ôm Lục ỷ đàn
Từ Nga Mi vượt non ngàn trời Tây
Mến ta dừng bước so dây
Âm như thông réo giục mây về ngàn
Mơ màng hồn thả theo đàn
Âm ngân hoà tiếng chuông vang sương mờ
Say mê chiều xuống chẳng ngờ
Núi xanh, mây xám, lá thu xạc xào

SongNguyễn HànTú
unnamed

次 北 固 山 下
客 路 青 山 外
行 舟 綠 水 前
潮 平 兩 岸 闊
風 正 一 帆 懸
海 日 生 殘 夜
江 春 入 舊 年
鄉 書 何 處 達
歸 雁 洛 陽 邊
王 灣Thử Bắc Cố sơn hạ

Khách lộ thanh sơn ngoại
Hành chu lục thủy tiền
Triều bình lưỡng ngạn khoát
Phong chính nhất phàm huyền
Hải nhật sinh tàn dạ
Giang xuân nhập cựu niên
Hương thư hà xứ đạt
Qui nhạn Lạc Dương biên

Vương Loan
(ngừng [thuyền] nghỉ dưới núi Bắc Cố)

(đường [thủy] cho lữ khách ở mé ngoài sườn núi xanh)
(thuyền đang lướt trên dòng nước biếc trước mặt)
(nước triều dâng đầy, hai bờ thấy rất xa nhau)
(thuận chiều gió, cánh buồm kéo cao)
(đêm đã tàn, mặt trời [vừa] ló rạng phía biển [đông])
(vẻ xuân trên sông vẫn còn [nhuốm đông] năm cũ)
(thư nhà biết nhận và gửi nơi đâu?)
([nhờ] nhạn [di cư] trở về [bắc khi] bay qua Lạc Dương?)

Đậu Thuyền Nghỉ Dưới Núi Bắc Cố

Ven núi biếc trên dặm trường lữ thứ
Nước xanh lơ thuyền lướt sóng bềnh bồng
Triều dâng cao đôi bờ nước mênh mông
Buồm căng gió đưa con thuyền xuôi nhẹ
Biển hừng đông tiễn đêm vào tàn tạ
Vẻ sông Xuân còn đượm nét mùa qua
Thư quê nhà nhận, gởi chốn nào giờ ?
Chắc nhờ nhạn bay về ngang Lạc vậy

SongNguyễn HànTú

unnamed

秋 夜 寄 丘
二 十 二 員 外
懷 君 屬 秋 夜
散 步 詠 涼 天
空 山 松 子 落
幽 人 應 未 眠
韋 應 物Thu Dạ Ký Khâu
Nhị Thập Nhị Viên Ngoại

Hoài quân thuộc thu dạ
Tản bộ vịnh lương thiên
Không sơn tùng tử lạc
U nhân ưng vị miên

Vi Ứng Vật

(đêm thu viết gửi
viên ngoại Hai-Mươi-Hai họ Khâu)

(đêm thu tôi tưởng nhớ tới bác)
(vừa đi dạo vừa ngâm thơ, khí trời mát mẻ)
(sườn núi vắng vẻ, trái thông rơi rụng)
(người ở ẩn chắc vẫn chưa an giấc)

Đêm Thu Nhớ Người

Đêm Thu nhớ bác ngẩn ngơ
Giữa trời mát mẻ …câu thơ tự tình
Trái thông rụng, cảnh vắng tanh
Hẳn người chưa kiếm giấc lành nghỉ ngơi

SongNguyễn HànTú

unnamed

秋 登 宣 城 謝 眺 北 樓
江 城 如 畫 裏
山 曉 望 晴 空
兩 水 夾 明 鏡
雙 橋 落 彩 虹
人 煙 寒 橘 柚
秋 色 老 梧 桐
誰 念 北 樓 上
臨 風 懷 謝 公
李 白Thu Đăng Tuyên Thành
Tạ Diễu Bắc Lâu

Giang Thành như họa lý
Sơn hiểu vọng tình không
Lưỡng thủy giáp minh kính
Song kiều lạc thái hồng
Nhân yên hàn quất dữu
Thu sắc lão ngô đồng
Thùy niệm bắc lâu thượng
Lâm phong hoài Tạ công

Lý Bạch

(ngày thu lên lầu phía bắc nhà Tạ Diễu ở Tuyên Thành)

([cảnh vật] thành bên sông đẹp như tranh vẽ)
(buổi sáng trên núi thấy bầu trời tạnh ráo vắng lặng)
(hai dòng nước kề bên sáng như gương)
(hai cây cầu có mống trời vắt qua)
(khói lam từ mái nhà dân gian làm cây quít và bưởi như nhuốm lạnh)
(vẻ thu làm cây ngô đồng như già đi)
(khách trên lầu bắc đều tưởng nhớ về [cố chủ nhân]}
(đứng hóng mát đều tiếc thương ông Tạ [Diễu]}

Mùa Thu, lên lầu bắc của Tạ Diễu
ở Tuyên Thành

Như tranh vẽ thành bên sông sừng sững
Sớm mai hồng, trên núi ngắm trời quang
Kề hai bên dòng nước sáng như gương
Cầu in bóng giữa mống vồng rực rỡ
Bưởi, quít lạnh trong khói lam vương tỏa
Dáng ngô đồng cằn cỗi giữa trời thu
Trên bắc lầu ai ngơ ngẩn, thẫn thờ
Hóng gíó mát lòng vương vương nhớ Tạ

SongNguyễn HànTú
unnamed

秋 江 送 客
秋 鴻 次 第 過
哀 猿 朝 夕 聞
是 日 孤 舟 客
此 地 亦 離 群
蒙 蒙 潤 衣 雨
漠 漠 冒 帆 雲
不 醉 潯 陽 酒
煙 波 愁 殺 人
白 居 易Thu giang tống khách

Thu hồng thứ đệ quá
Ai viên triêu tịch văn
Thị nhật cô chu khách
Thử địa diệc ly quần
Mông mông nhuận y vũ
Mạc mạc mạo phàm vân
Bất túy Tầm Dương tửu
Yên ba sầu sát nhân

Bạch Cư Dị

(tiễn khách trên sông thu)

(chim ngỗng trời trong tiết thu theo thứ tự trong đàn bay ngang)
(từ sáng đến chiều đều nghe tiéng vượn kêu buồn bã)
(ngày hôm ấy khách một mình lên thuyền)
(bến sông ấy cũng là nơi bạn bè chia tay)
(mưa đầy trời làm ướt cả áo)
(mây lặng lẽ bao trùm cánh buồm)
(rượu Tầm Dương không làm ta say)
(nhưng khói sóng trên sông gợi sầu ly biệt làm ta chết cả cõi lòng)

Tiễn Đưa Trên Sông Thu

Trời mùa thu loài chim hồng bay hết
Vượn hú buồn tảng sáng đến chiều rơi
Chiếc thuyền con riêng ai bóng lẻ loi
Cùng chốn ấy cảnh biệt ly sầu não
Mây bao la, mưa dầm dề ướt áo
Cánh buồm xa dần lẩn khuất trong mây
Rượu Tầm Dương sao chẳng uống mà say
Nhìn khói sóng lòng dâng sầu tê tái

SongNguyễn HànTú
unnamed

秋 興
其 二
夔 府 孤 城 落 日 斜
每 依 北 斗 望 京 華
聽 猿 實 下 三 聲 淚
奉 使 虛 隨 八 月 槎
畫 省 香 爐 違 伏 枕
山 樓 粉 堞 隱 悲 笳
請 看 石 上 藤 蘿 月
已 映 洲 前 蘆 荻 花
杜 甫Thu Hứng – kỳ nhị

Quỳ phủ cô thành lạc nhật tà
Mỗi y Bắc đẩu vọng kinh hoa
Thính viên thực há tam thanh lệ
Phụng sứ hư tùy bát nguyệt tra
Họa tỉnh hương lô vi phục chẩm
Sơn lâu phấn điệp ẩn bi già
Thỉnh khan thạch thượng đằng la nguyệt
Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa

Đỗ Phủ
(cảm hứng mùa thu – bài 2)

(chiều về trên thành Phủ Quỳ đơn lẻ [ta đang trú ngụ] )
(mỗi [đêm] ta đều xem sao Bắc đẩu để vọng về kinh đô)
(nghe vượn hú 3 tiếng ta thực sự rơi lệ)
([tưởng như] đã phụng mệnh vua đi sứ bằng bè 8 tháng )
([tưởng tới]vách vẽ, lò hương [ở kinh đô] không ngủ được)
([hiện ở] nhà sàn vách vôi trên núi nghe vọng tiếng kèn buồn bã)
(xin hãy ngắm vầng trăng phía trên phiến đá có cây dây leo)
(đã chiếu vào đám hoa lau trước bãi sông)

Thu Hứng – bài 2

Chiều tà Quỳ Phủ chơ vơ
Vời theo sao Bắc lòng mơ Kinh thành
Nghe vượn kêu, dạ buồn tênh
Mơ bè đi sứ riêng mình sầu dâng
Không vách vẽ, chẳng lò hương
Tiếng kèn não nuột vọng vương bên lầu
Chạnh nhìn ghềnh đá phía sau
Bến sông trăng rọi hoa lau vật vờ

SongNguyễn HànTú

unnamed

秋 興
其 三
千 家 山 郭 靜 朝 暉
日 日 江 樓 坐 翠 微
信 宿 漁 人 還 汎 汎
清 秋 燕 子 故 飛 飛
匡 衡 抗 疏 功 名 薄
劉 向 傅 經 心 事 違
同 學 少 年 多 不 賤
五 陵 裘 馬 自 輕 肥
杜 甫Thu Hứng, kỳ tam

Thiên gian sơn quách tĩnh triêu huy
Nhật nhật giang lâu tọa thúy vi
Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiến
Thanh thu yến tử cố phi phi
Khuông Hành kháng sớ công danh bạc
Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi
Đồng học thiếu niên đa bất tiện
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì

Đỗ Phủ
(thu hứng, bài 3)

(nhà nhà bên ngoài quách núi dưới ánh ban mai)
([ta] ngày ngày ngồi trên gác bên sông ngắm khói biếc)
(đêm này đêm nọ ngư dân vẫn chèo thuyền về)
(vì trời thu trong nên chim én vẫn bay qua bay lại)
(cũng dâng sớ như Khuông Hành mà công danh nhỏ nhoi)
(cũng giảng kinh như Lưu Hướng mà lòng vẫn chưa an)
(bạn học hồi còn nhỏ nay đa số thành đạt)
(ở vùng Ngũ Lăng, mặc áo lông cừu nhẹ, cưỡi ngựa béo)

Thu Hứng 3

Dịu dàng trong giải nắng mai
Xa xa triền núi khói bay lững lờ
Lưới chèo khua nước đêm mờ
Én tung tăng lượn, tiết thu dịu dàng
Cũng dâng sớ mộng đăng quang
Cũng ngày kinh giảng, cũng màng lợi danh
Bạn bè nhiều kẻ đạt thành
Ngũ Lăng áo mão công danh sang giàu

SongNguyễn HànTú

unnamed

秋 興
其 四
聞 道 長 安 似 奕 棋
百 年 世 事 不 勝 悲
公 侯 第 宒 皆 新 主
文 武 衣 冠 異 昔 時
直 北 關 山 金 鼓 震
征 西 車 馬 羽 書 馳
魚 龍 寂 寞 秋 江 冷
故 國 平 安 有 所 思
杜 甫Thu Hứng kỳ tứ

Văn đạo Trường An tự dịch kỳ
Bách niên thế sự bất thăng bi
Công hầu đệ trạch giai tân chủ
Văn võ y quan dị tích thì
Trực bắc quan san kim cổ chấn
Chinh tây xa mã vũ thư trì
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh
Cố quốc bình an hữu sở ti

Đỗ Phủ
(Cảm Hứng Mùa Thu bài 4)

(nghe nói Trường An [nay] như một cuộc cờ lớn)
(việc đời trăm năm không khỏi đau thương)
(dinh thự của công hầu [cũ] nay toàn chủ mới)
(mũ áo của các quan văn võ khác hẳn thời trước)
(chiêng trống vang dội từ các quan ải phía chính bắc)
(quan quân, xe ngựa, thư chiến trận rầm rập đi về phía tây)
(sông thu [nơi này] lạnh lẽo, cá lặn hết)
(làm ta chạnh nhớ [Trường An] thủa thanh bình).

Thu Hứng 4

Đổi thay như một cuộc cờ
Trường An lừng lẫy nào ngờ biển dâu
Lâu đài chủ cũ giờ đâu
Áo quan văn võ mặc màu khác xưa
Ầm ầm phía Bắc trống khua
Cửa Tây ngựa sải kịp giờ chuyển tin
Sông thu cá lặn im lìm
Chạnh lòng nhớ cảnh bình yên thủa nào

SongNguyễn HànTú
unnamed

秋 興
其一
玉 露 凋 傷 楓 樹 林
巫 山 巫 峽 氣 蕭 森
江 間 波 浪 兼 天 湧
塞 上 風 雲 接 地 陰
叢 菊 兩 開 他 日 淚
孤 舟 一 繫 故 園 心
寒 衣 處 處 催 刀 尺
白 帝 城 高 急 暮 砧
杜 甫Thu Hứng – kỳ nhất

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm

Đỗ Phủ
(cảm hứng mùa thu – bài 1)

(móc trong như ngọc làm rừng phong điêu tàn)
(núi Vu và kẽm Vu đầy hơi sương, vẻ tiêu điều)
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng (lòng sông nổi sóng lớn, nước tung tóe lên trời)
(gió đùn mây từ quan ải tới bình địa âm u)
(khóm cúc đã nở hai lần, ta đều nhỏ lệ trên đất khách)
(trên chiếc thuyền lẻ loi lòng ta vẫn gắn bó với vườn cũ)
(mọi nơi đang rộn rã thước và dao may áo lạnh)
(thành cao Bạch Đế, chiều rộn tiếng chày đập giặt áo)

Cảm Hứng Mùa Thu

bài 1/8

Móc sa mờ mịt rừng phong
Mơ hồ hơi tỏa khắp vùng Vu Sơn
Sóng dồn nước bắn cao hơn
Cảnh trông ảm đạm trời vần vũ mây
Hai mùa cúc nở đất này
Cô đơn thuyền chiếc, dạ hoài vườn quê
Kẻ may áo … ngại lạnh về
Tiếng chày thành Bạch não nề hoàng hôn

SongNguyễn HànTú
unnamed

秋 日
返 照 入 閭 巷
憂 來 誰 共 語
古 道 少 人 行
秋 風 動 禾 黍
耿 湋Thu Nhật

Phản chiếu nhập lư hạng
Ưu lai thùy cộng ngữ
Cổ đạo thiểu nhân hành
Thu phong động hòa thử

Cảnh Vi
(ngày thu)

(nắng xế chiếu vào cổng ngõ)
(lo buồn chợt đến nhưng không biết ngỏ cùng ai)
(con đường ngày xưa[của 2 đứa] nay người [ấy] ít qua lại)
([chỉ có] gió thu lay động nhánh lúa [mà thôi])

Ngày Thu

Ngõ mòn chiếu nắng ngả
Buồn khơi dậy trong lòng
Đường xưa sao vắng quá
Ngọn lúa bỡn thu phong

SongNguyễn HànTú
unnamed

秋 日 湖 上
落 日 五 湖 遊
煙 波 處 處 愁
浮 沈 千 古 事
誰 與 問 東 流
薛 瑩Thu Nhật Hồ Thượng

Lạc nhật Ngũ Hồ du
Yên ba xứ xứ sầu
Phù trầm thiên cổ sự
Thùy dữ vấn đông lưu
Tiết Oánh

(trên mặt hồ mùa thu)

(dạo chơi vùng Ngũ Hồ lúc nắng chiều)
(chỗ nào cũng có khói hồ và sóng nước buồn bã)
(việc đời trăm năm lúc nổi lúc chìm)
(biết hỏi ai vì sao nước sông lúc nào cũng chảy hướng đông?)

Ngày Thu Trên Hồ

Ngũ Hồ mây nước giữa hoàng hôn
Khói sóng lênh đênh cảnh trĩu buồn
Chìm nổi ngàn xưa bao chuyện cũ
Xuôi Đông sao nước mãi còn tuôn ?

SongNguyễn HànTú

Leave a comment