** Tập 5 Đường Thi – SNHT
早 春 遊 望
偏 驚 物 候 新
雲 霞 出 海 署
梅 柳 渡 江 春
淑 氣 催 黃 鳥
晴 光 轉 綠 蘋
忽 聞 歌 古 調
歸 思 欲 沾 巾
“Tảo Xuân Du Vọng” Độc hữu hoạn du nhân
Thiên kinh vật hậu tân
Vân hà xuất hải thự
Mai liễu độ giang xuân
Thục khí thôi hoàng điểu
Tịnh quang chuyển lục tần
Hốt văn ca cổ điệu
Quy tứ dục triêm cân
Đỗ Thẩm Ngôn
(họa bài thơ “Tảo Xuân Du Vọng”
của quan Thừa Tướng họ Lục ở Tấn Lăng)
(chỉ có kẻ làm quan ở nơi xa )
(là sợ cảnh vật và khí hậu đổi mới)
(đám mây ráng hồng sáng hiện ra trên mặt biển)
(hoa mai và liễu thắm xuân ở bên kia bờ sông)
(khí trời ấm dịu khiến chim vàng đua hót)
(ánh nắng khô ráo chiếu trên cỏ tần xanh)
(chợt nghe tiếng ca theo điệu cổ)
(ý muốn trở về nhà khiến lệ tràn dâng)
Họa Bài Thơ “Đi Chơi Xem Cảnh Xuân Sớm”
Của Lục Thừa Tướng Ở Tấn Lăng
Phải nhậm chức chốn xa xôi viễn xứ
Lòng bâng khuâng sợ nhìn cảnh đổi thay
Mới sáng ra ráng trên biển tỏa đầy
Bên sông rợp bóng liễu mai xanh ngắt
Khí trong mát tiếng oanh vàng réo rắt
Loài tần xanh tắm nắng ấm chan hòa
Vẳng bên tai bài hát cổ ngân nga
Muốn về quá, lệ sầu tuôn lã chã
SongNguyễn HànTú
雲 樹 森 森 碧 殿 寒
明 月 自 來 還 自 去
更 無 人 倚 玉 欄 杆
Vân thụ sâm sâm bích điện hàn
Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ
Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can
Thôi Lỗ
(cung Hoa Thanh)
(cỏ đã mọc lan thềm đá, tiếng chuông xe loan đã hết)
(mây và cây cối u ám, điện ngọc lạnh lẽo)
(trăng sáng cứ mọc rồi cứ lặn)
(càng không có ngưòi nào đứng dựa lan can ngọc)
Cung Hoa Thanh
Bài 1
Bậc đá cỏ che chẳng nhạc rung
Cây vương sương phủ điện lạnh lùng
Vẫn vầng trăng cũ lu rồi tỏ
Lầu ngọc thiếu người cảnh vắng không
Bài 2
Lối đá cỏ che vắng âm xưa
Cây quanh cung lạnh phủ sương mờ
Vẫn kia vầng nguyệt lu rồi tỏ
Lầu ngọc không người quá tiêu sơ
SongNguyễn HànTú
畫 鷹
素 練 風 霜 起
蒼 鷹 畫 作 殊
摐 身 思 狡 兔
側 目 似 愁 猢
倏 鏇 光 堪 摘
軒 楹 勢 可 呼
何 當 擊 凡 鳥
毛 血 洒 平 蕪
杜 甫
Họa Ưng
Tố luyện phong sương khởi
Thương ưng họa tác thù
Song thân tư giảo thố
Trắc mục tự sầu hồ
Điều tuyền quang kham trích
Hiên doanh thế khả hô
Hà đương kích phàm điểu
Mao huyết sái bình vu
Đỗ Phủ
(chim ưng vẽ)
(trên nền lụa trắng đẹp, hiện ra nền gió sương)
(rồi hình con chim ưng màu xanh rất khéo)
(nghiêng mình nghĩ về con thỏ tinh ranh)
(xụ mắt xuống như con khỉ buồn)
(sợi dây xích sáng loáng như có thể sờ được)
(đậu trên trụ ngoài hiên ở tư thế có thể gọi nghe)
(khi nào mới tấn công chim tầm thường?)
(khi đó lông và máu sẽ vương vãi trên bãi cỏ bằng)
Bức Vẽ Chim Ưng
Trên lụa trắng hiện ra nền sương gió
Hình chim ưng khéo vẽ bộ lông xanh
Thế nghiêng nghiêng như dáng thỏ tinh ranh
Mắt xụp xuống tựa khỉ già buồn bã
Trông tưởng thật sợi xích chân sáng lóa
Đậu ngoài hiên, trên trụ, thế chờ kêu
Sao chẳng thêm vài nét vẽ tuyệt chiêu
Cảnh lông máu chim hoang trên bãi cỏ
SongNguyễn HànTú
懷 廬 山 舊 隱
九 疊 芙 蓉 峭 到 天
悔 隨 瀑 水 下 寒 煙
深 秋 猿 鳥 來 心 上
徹 夜 松 杉 在 眼 前
書 架 壞 知 成 朽 菌
石 窗 倒 定 漫 流 泉
一 枝 竹 杖 遊 江 北
不 見 廬 峰 二 十 年
棲 一
Hoài Lư Sơn Cựu Ẩn
Cửu điệp Phù Dung tiếu đáo thiên
Hối tùy bộc thủy há hàn yên
Thâm thu viên điểu lai tâm thượng
Triệt dạ tùng sam tại nhãn tiền
Thư giá hoại tri thành hủ khuẩn
Thạch song đảo định mạn lưu tuyền
Nhất chi trúc trượng du Giang Bắc
Bất kiến Lư phong nhị thập niên
Thê Nhất
(chín tầng núi Phù Dung cao tới trời)
(hối hận đã theo dòng thác mà xuống chỗ khói lạnh)
(cuối thu vượn và chim đi vào lòng người)
(suốt đêm trước mắt chỉ là tùng và bách)
(giá sách đã hư nay chắc đã thành gỗ mục)
(cửa sổ đá chắc đã đổ vào dòng suối chảy)
(chống gậy trúc ngao du miền Giang Bắc)
(đã không thấy núi Lư hai chục năm rồi)
Nhớ Lư Sơn
Nhìn đỉnh núi Phù Dung cao ngất
Bỗng chạnh lòng nuối tiếc chốn xưa
Nơi thu tàn mỗi độ
Đàn chim, vượn bên lòng
Giờ đêm đối bóng hàng thông
Kệ xưa chắc có còn không?
Mục rồi!
Đá xây cửa chắc rã rời
Tan trong dòng suối về nơi xa ngàn
Trời Giang Bắc
Gậy đỡ thân
Hai mươi năm chẳng một lần ghé Lư
SongNguyễn HànTú
淮 上 喜 會
梁 川 故 人
江 漢 曾 為 客
相 逢 每 醉 還
浮 雲 一 別 後
流 水 十 年 間
歡 笑 情 如 舊
蕭 疏 髮 已 斑
何 因 不 歸 去
淮 上 對 秋 山
韋 應 物
Hoài Thượng Hỉ Hội
Lương Xuyên Cố Nhân
Giang Hán tằng vi khách
Tương phùng mỗi túy hoàn
Phù vân nhất biệt hậu
Lưu thủy thập niên gian
Hoan tiếu tình như cựu
Tiêu sơ phát dĩ ban
Hà nhân bất quy khứ
Hoài thượng đối thu san
Vi Ứng Vật
(mừng gặp bạn cũ
trên sông Hoài đất Lương Xuyên)
(từng là khách lưu lạc vùng Giang Hán)
một lần uống say trở về ta gặp nhau)
(lúc chia tay như đám mây bay)
(như dòng nước chảy đã 10 năm)
(cười vui trong tình cảm như xưa)
(tóc lưa thưa đã điểm sương)
(vì sao ta chưa chịu về quê?)
(mà cứ ở mãi trên sông Hoài trước núi thu này)
Trên Sông Hoài Gặp Bạn Cũ
Bước lưu lạc từng gặp nơi Giang Hán
Đã một lần cùng ngất ngửng say sưa
Rồi chia tay như mây chẳng bến bờ
Tưởng mới đấy mà mười năm qua hết
Chẳng đổi khác vẫn vui đùa một nết
Chỉ khác xưa tóc thưa thớt trắng phau
Chả hiểu sao không trở lại quê yêu
Thu về vẫn bên sông Hoài đồi núi
SongNguyễn HànTú
黃 鶴 樓
昔 人 已 乘 黃 鶴 去
此 地 空 餘 黃 鶴 樓
黃 鶴 一 去 不 復 返
白 雲 千 載 空 悠 悠
晴 川 歷 歷 漢 陽 樹
芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲
日 暮 鄉 關 何 處 是
煙 波 江 上 使 人 愁
崔 顥
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu
(Lầu Hoàng Hạc)
(người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi)
(chỗ này chỉ còn là lầu Hoàng Hạc trống không)
(hạc vàng đã đi sẽ không trở lại)
(mây trắng vẫn ngàn năm bay mãi mãi)
(cây xứ Hán Dương hiện rõ bên dòng sông phẳng lặng)
(cỏ thơm tươi tốt trên bãi Anh Vũ)
(xế chiều rồi, cổng làng đi về hướng nào)
(khói sóng trên sông làm biồn lòng người )
Chạnh Lòng
Người tiên cưỡi hạc đi rồi
Lầu vàng vẫn đứng rã rời đợi trông
Nhìn lên hạc có về không
Chỉ toàn mây trắng mênh mông lững lờ
Hán Dương cây đứng thờ ơ
Bãi Anh Vũ trải một bờ cỏ xanh
Nhớ quê lòng nặng bao tình
Nhìn theo khói sóng lênh đênh nỗi buồn
SongNguyễn HànTú
橫 江 詞
橫 江 館 前 津 吏 迎
向 余 東 指 海 雲 生
郎 今 欲 度 緣 何 事
如 此 風 波 不 可 行
李 白
Hoành Giang Từ
Hoành Giang quán tiền tân lại nghênh
Hướng dư đông chỉ hải vân sinh
Lang kim dục độ duyên hà sự
Như thử phong ba bất khả hành
Lý Bạch
(bài ca sông Hoành Giang)
(trước quán bến sông Hoành Giang gặp lính gác)
(chỉ cho ta thấy mây trên biển đông đang đùn lên)
(nay bạn vì chuyện gì mà lại muốn qua sông)
(sóng gió như thế này chắc không thể đi)
Bài Ca Hoành Giang
Trước Hoành Giang người chiến binh tư lự
Chỉ phương đông biển vần vũ mây trời
Vẻ chân thành, giọng e ngại khuyên lời
Giông gió tới
E qua sông chẳng ổn
SongNguyễn HànTú
Gặp lính gác bến Hoành Giang
Chỉ mây vùng biển từng hàng kéo lên
Này ông …chú ngỏ lời khuyên
Đừng đi, sóng cả chẳng yên được nào
NguyễnTâmHàn
回 鄉 偶 書
其 二
離 別 家 鄉 歲 月 多
近 來 人 事 半 銷 磨
惟 有 門 前 鏡 湖 水
春 風 不 改 舊 時 波
賀 知 章
Hồi hương ngẫu thư
kỳ nhị
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa
Cận lai nhân sự bán tiêu ma
Duy hữu môn tiền Kính hồ thủy
Xuân phong bất cải cựu thời ba
Hạ Tri Chương
(khi về làng, viết trong hứng bất chợt)
kỳ nhị
(xa cách quê nhà đã nhiều năm)
(gần đây cuộc sống đã gần như mỏi mòn)
(duy có nước hồ Kính ở trước cổng nhà)
(gió xuân không đổi lớp sóng ngày xưa)
Về Quê Xưa
bài 2
Từ đi mấy độ thu tàn
Giờ đây chốn cũ xóm làng đổi thay
Cảnh xưa còn Kính hồ này
Vẫn Xuân gió gợn sóng lay mặt hồ
SongNguyễn HànTú
回 鄉 偶 書
少 小 離 家 老 大 回
鄉 音 無 改 鬢 毛 衰
兒 童 相 見 不 相 識
笑 問 客 從 何 處 來
賀 知 章
Hồi Hương Ngẫu Thư
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao suy
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai
Hạ Tri Chương
(tình cờ viết khi về làng)
(lúc bé xa nhà, khi già trở về)
(giọng quê không đổi nhưng râu tóc suy tàn)
(trẻ em gặp nhưng không biết ta)
(vừa cười vừa hỏi ta từ đâu lại đây)
Về Quê Xưa 1
Ngày về bóng xế trăng tà
Giọng xưa vẫn vậy, tóc giờ điểm sương
Ngu ngơ chú bé bên đường
Hỏi rằng khách tới từ phương trời nào
SongNguyễn HànTú
迴 望 館 娃 故 宮
江 雲 斷 續 草 綿 連
雲 隔 秋 波 樹 覆 煙
飄 雪 荻 花 鋪 漲 渚
變 霜 楓 葉 捲 平 田
雀 愁 化 水 喧 斜 日
鴻 怨 驚 風 叫 暮 天
因 問 館 娃 何 所 恨
破 吳 紅 臉 尚 開 蓮
李 紳
Hồi Vọng Quán Oa Cố Cung
Giang vân đoạn tục thảo miên liên
Vân cách thu ba, thụ phú yên
Phiêu tuyết địch hoa phô trướng chử
Biến sương phong diệp quyển bình điền
Tước sầu hóa thuỷ huyên tà nhật
Hồng oán kinh phong khiếu mộ thiên
Nhân vấn Quán Oa hà sở hận
Phá Ngô hồng kiểm thượng khai liên
Lý Thân
(ngoảnh trông cung Quán Oa cũ)
(trên sông mây đứt khúc, cỏ liên tiếp)
(mây xa cách sóng thu, sương khói phủ cây)
(tuyết rơi phơi phơí, hoa lau nơi bến nước lên cao)
(sương thay dạng, lá phong cuốn theo gió trong ruộng)
(chim sẻ buồn dòng nước biến chuyển kêu rộn trong nắng xế)
(chim hồng ngán gió lớn kêu lớn trong trời chiều)
(diệt Ngô đã xong mà sao còn nở những hoa sen như má hồng thế)
Vọng Trông Cung Quán Oa Xưa
Mây sông dường đứt, nối
Cỏ lớp lớp trải dài
Trên sông thu sóng xa cách mây trời
Tuyết tản mạn, cây cao mờ sương phủ
Bến nước ngập hoa lau còn hiện rõ
Sương mong manh…
Lá phong cuốn trên đồng
Nước đổi thay, sẻ kêu rộn chiều vàng
Oán gió mạnh, hồng gào trong nắng xế
Cung Quán Oa có điều gì hận nhỉ?
Sao sen hồng nở trước cảnh Ngô tan ? !!!
SongNguyễn HànTú
友 人 夜 訪
簷 間 清 風 簟
松 下 明 月 杯
幽 意 正 如 此
況 乃 故 人 來
白 居 易
Hữu Nhân Dạ Phỏng
Thiềm gian thanh phong điệm
Tùng hạ minh nguyệt bôi
U ý chính như thử
Huống nãi cố nhân lai
Bạch Cư Dị
(người bạn lại thăm ban đêm)
(trên thềm gió mát trải chiếu)
(dưới gốc thông, có ánh trăng và rượu)
(thanh nhàn như thế đó)
(huống hồ còn có bạn cũ lại chơi)
Bạn Đến Thăm Ban Đêm
Trước thềm trải chiếu gió lùa
Rượu ngời ánh nguyệt, đong đưa thông già
Ung dung trước cảnh gấm hoa
Lại thêm bạn quí đậm đà niềm vui
SongNguyễn HànTú
Trải chiếu trước thềm hóng gió
Dưới thông vui với rượu trăng
Hưởng đời thanh nhàn thế đó
Huống chi có bạn vui cùng
NguyễnTâmHàn
又 呈 吳 郎
堂 前 撲 棗 任 西 鄰
無 食 無 兒 一 婦 人
不 為 囷 窮 寧 有 此
只 緣 恐 懼 轉 須 親
即 防 遠 客 誰 多 事
便 插 蔬 籬 卻 甚 真
已 訴 徵 求 貧 到 骨
正 思 戎 馬 淚 盈 巾
杜 甫
Hựu Trình Ngô Lang
Đường tiền phác tảo nhiệm tây lân
Vô thực vô nhi nhất phụ nhân
Bất vi khốn cùng ninh bất thử
Chỉ duyên khủng cụ chuyển tu thân
Tức phòng viễn khách thùy đa sự
Tiện sáp sơ ly khước thậm chân
Dĩ tố trưng cầu bần đáo cốt
Chính tư nhung mã lệ doanh vân
Đỗ Phủ
(lại gửi chàng Ngô)
(trước nhà cứ mặc cho người hàng xóm phía tây đập táo)
(có một bà không có cái ăn, cũng không có con)
( nếu không cùng khốn thì đã không như thế)
(chỉ vì lo sợ mà bà đến làm quen)
(để phòng các người xa lạ nhiều chuyện)
(nên làm hàng rào, mà đúng thật)
(bà tố cáo: bị thuế má quá nên nghèo thấu xương)
(còn ta nghĩ tới giặc giã mà lệ đẫm khăn)
Lại Gởi Chàng Ngô
Ngoảnh mạt không màng người đập táo
Có bà cô quả chẳng cơm ăn
Dòng đời xô đẩy thêm cùng khốn
Bụng đói ví nên phải ân cần
Tránh mắt thế gian hay dòm ngó
Dựng rào khiến kẻ khó băn khoăn
Xưu cao thuế nặng trơ xương cốt
Nghĩ cảnh can qua mắt ướt dầm
SongNguyễn HànTú
玄 都 館 棑 花
紫 陌 紅 塵 拂 面 來
無 人 不 道 看 花 回
玄 都 館 裡 棑 千 樹
盡 是 劉 郎 去 後 栽
劉 禹 錫
Huyền Đô Quán Đào Hoa
Tử mạch hồng trần phất diện lai
Vô nhân bất đạo khán hoa hồi
Huyền Đô quán lý đào thiên thụ
Tận thị Lưu lang khứ hậu tài
Lưu Vũ Tích
(hoa đào ở quán đạo Huyền Đô)
(trên đường tím, bụi hồng phả vào mặt)
(những người về không ai là không nói đi ngắm hoa)
(cà ngàn cây đào ở quán đạo Huyền Đô)
(đều được trồng sau khi chàng Lưu đi [nhập Thiên Thai])
Ghi chú: Huyền Đô quán là nơi tu đạo tiên ngày xưa,
ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
Hoa Đào Trong Huyền Đô Quán
Đường màu tím bụi hồng bay lấm mặt
Ai cũng khoe mới đi ngắm hoa về
Am Huyền Đô ngàn hồng nở xum xuê
Chắc trồng lúc chàng Lưu du Nguyệt điện
SongNguyễn HànTú
螢 火
幸 因 腐 草 出
敢 近 太 陽 飛
未 足 臨 書 卷
時 能 點 客 衣
隨 風 隔 幔 小
帶 雨 傍 林 微
十 月 清 霜 重
飄 零 何 處 知
杜 甫
Huỳnh Hỏa
Hạnh nhân hủ thảo xuất
Cảm cận thái dương phi
Vị túc lâm thư quyển
Thời năng điếm khách y
Tùy phong cách mạn tiểu
Đới vũ bạng lâm vi
Thập nguyệt thanh sương trọng
Phiêu linh hà xứ tri
Đỗ Phủ
(con đom đóm)
(may mà từ cỏ mục xuất thân được)
(đâu dám bay gần mặt trời)
(chưa tới được cuốn sách)
(thì đã bám vào áo khách rồi)
(theo gió cách bức màn thân nhỏ bé)
(trong mưa ở bên rừng thân nhỏ li ti)
(tháng mười sương trong nặng hạt)
(chẳng biết mi sẽ trôi dạt về đâu?)
Đom Đóm
Sinh từ nơi cỏ mục
Đâu dám sánh mặt trời
Chưa đụng tới trang sách
Sà vào bám áo người
……
Phía ngoài màn theo gió
Nhạt nhòa bên ven rừng
Sương tháng mười nặng hạt
Xiêu lạc giữa mênh mông
SongNguyễn HànTú
客 至
舍 南 舍 北 皆 春 水
但 見 群 鷗 日 日 來
花 徑 不 曾 緣 客 掃
蓬 門 今 始 為 君 開
盤 餐 市 遠 無 兼 味
樽 酒 家 貧 只 舊 醅
肯 與 鄰 翁 相 對 飲
隔 籬 呼 取 盡 餘 杯
杜 甫
Khách Chí
Xá nam xá bắc giai xuân thủy
Đản kiến quần âu nhật nhật lai
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo
Bồng môn kim thủy vị quân khai
Bàn xan thị viễn vô kiêm vị
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi
Khẳng dữ lân ông tương đối tửu
Cách ly hô thủ tận dư bôi
Đỗ Phủ
(khách đến)
(mùa xuân, phía nam phía bắc nhà toàn là nước)
(nhưng thấy bầy chim âu ngày nào cũng tới)
(nay cửa cỏ bồng vì ông mà mở ra)
(vì chợ xa nên mâm cơm không có nhiều món)
(nhà nghèo chỉ có rượu cũ chưa lọc)
(thôi đành cùng ông hàng xóm đối ẩm)
(cách hàng rào kêu ổng còn bao nhiêu rượu mang qua)
Khách Đến
Chênh vênh một mái nhà sàn
Quanh năm thoáng mát, gió đan sớm chiều
Suốt ngày đám hải âu kêu
Đường hoa chỉ dọn khi nào khách qua
Hôm nay cữa cỏ mở ra
Mâm cơm đãi bạn chỉ là thêm ly
Chợ xa nên chẳng có gì
Chỉ còn rượu cặn… đừng chê…xin mới
Nơi đây hẻo lánh xa người
Uống đi…uống cạn…tình vui xóm giếng
SongNguyễn HànTú
薄 遊 洴 隴 因 題海 燕 西 風 白 日 斜
天 門 遙 望 五 佚 家
樓 臺 深 鎖 無 人 到
落 盡 東 風 第 一 花許 渾Khách Hữu Bốc Cư Bất Toại
Bạc Du Nghiên Lũng Nhân Đề Hải yến tây phong bạch nhật tà
Thiên môn dao vọng ngũ hầu gia
Lâu đài thâm tỏa vô nhân đáo
Lạc tận đông phong đệ nhất hoa
Hứa Hồn
(viết nhân chọn chỗ ở không được
đi vơ vẩn ở gò Nghiên)
(yền biển bay trong gió tây, mặt trời lặn)
(từ xa trông về dinh cơ của bọn công hầu ở kinh đô)
(lâu đài cửa khóa chặt không ai lui tới)
(các loại hoa quý rơi rụng trước gió xuân)
Viết nhân chọn chỗ ở không được
đi vơ vẩn ở gò Nghiên
Gió Tây, yến liệng, chiều dần xuống
Vọng mắt trông về chốn đế đô
Dinh cao, cổng khóa không người tới
Ngọn gió Đông lùa hoa xác xơ
SongNguyễn HànTú
客 從
客 從 南 溟 來
遺 我 泉 客 珠
珠 中 有 隱 字
欲 辨 不 成 書
緘 之 篋 笥 久
以 俟 公 家 須
開 視 化 為 血
哀 今 徵 歛 無
杜 甫
Khách Tòng
Khách tòng Nam minh lai
Di ngả tuyền khách châu
Châu trung hữu ẩn tự
Dục biện bất thành thư
Giam chi kíp tư cữu
Dĩ sĩ công gia tu
Khai thị hóa vi huyết
Ai kim trưng liễm vô
Đỗ Phủ
(khách từ)
(khách từ biển Nam lại)
(để lại cho ta viên ngọc cá)
(trong ngọc như có chữ)
(muốn đọc thì lại không thành chữ)
(cất kỹ trong hộp đã lâu)
(để đợi khi nhà quan dùng đến)
(khi mở ra ngọc bién thành máu)
(Thưong thay! Nay không còn gí nạp thuế)
Khách Từ
Khách từ biển Nam tới
Tặng viên ngọc nhân ngư
Thoảng nét chữ lờ mờ
Cố đọc không hiểu nổi
…..
Quí ngọc cất dấu kỹ
Việc quan bỗng cần dùng
Mở ra ngọc thành máu
Lấy gì nộp cửa công !
SongNguyễn HànTú
客 中 作
蘭 陵 美 酒 鬱 金 香
玉 碗 盛 來 琥 珀 光
但 使 主 人 能 醉 客
不 知 何 處 是 他 鄉
李 白
Khách Trung Tác
Lan Lăng mỹ tữu uất kim hương
Ngọc uyển thạnh lai hố phách quang
Đản sử chủ nhân năng túy khách
Bất tri hà xứ thị tha hương
Lý Bạch
(viết lúc đang ở xứ lạ)
(rượu ngon xứ Lan Lăng có hương vị nghệ)
(rót đầy trong chén ngọc hổ phách óng ánh)
(ví như chủ nhân biết làm khách uống say)
(thì khách chẳng còn biết chỗ nào là xứ lạ nữa)
Viết Nơi Đất Lạ
Phiêu du ghé lại Lan Lăng
Rượu thơm mùi uất kim hương chan hòa
Nếu mà chủ biết tình ta
Say rồi còn biết đâu là tha phương
SongNguyễn HànTú
溪 居
門 徑 俯 清 溪
茆 簷 古 木 齊
紅 塵 飛 不 到
時 有 水 禽 啼
裴 度
Khê Cư
Môn kính phủ thanh khê
Mao thiềm cổ thụ tề
Hồng trần phi bất đáo
Thời hữu thủy cầm đề
Bùi Độ
(chỗ ở bên suối)
(lối di ngoài ngõ trông xuống dòng suối trong)
(mái cỏ mao ngang với ngọn cây già)
(bụi hồng bay không tới)
(lâu lâu có tiếng chim nước kêu)
Nhà Bên Suối
Bên ngõ hẹp suối trong veo róc rách
Ngọn cây già cao ngang mái nhà tranh
Bụi hồng không đẩy dạt khí trong lành
Đôi khi vẳng đâu đây chim nước gáy
SongNguyễn HànTú
楚 腰 纖 細 掌 中 輕
十 年 一 覺 揚 州 夢
贏 得 青 樓 薄 倖 名杜 牧Khiển Hoài Lạc phách giang hồ tái tửu hành
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh
Đỗ Mục
(xua đuổi nỗi nhớ)
(ta cùng rượu lưu lạc khắp sông hồ)
(nhẹ nắm trong tầm tay các lưng ong nhỏ, mềm)
(10 năm sau tỉnh giấc mộng Dương Châu)
(chỉ được cái tiếng kẻ phụ bạc chốn lầu xanh)
(xua đuổi nỗi nhớ)
Ôm bầu rượu ta lang thang đây đó
Khắp sông hồ vui tìm kiếm mỹ nhân
Cả mười năm mới chợt tỉnh tâm thần
Chỉ được tiếng kẻ lầu xanh phụ bạc
SongNguyễn HànTú
— Bản dịch của NguyễnTâmHàn —
Tự Trách
Vui say lang bạt khắp trời
Đêm ngày hoan lạc cạnh người đẹp xinh
Qua mười năm mới giật mình
Dương Châu nổi tiếng lầu xanh phụ phàng
NguyễnTâmHàn
曲 江 對 酒
苑 外 江 頭 坐 不 歸
水 晶 宮 殿 轉 霏 微
桃 花 細 逐 梨 花 落
黃 鳥 時 兼 白 鳥 飛
縱 飲 久 判 人 共 棄
懶 朝 真 與 世 相 違
吏 情 更 覺 滄 洲 遠
老 大 悲 傷 未 拂 衣
杜 甫
Khúc Giang Đối Tửu
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Đào hoa tế trục lê hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng ẩm cửu phan nhân cộng khí
Lãn triều chân dữ thế tương vi
Lại tình cánh giác thương châu viễn
Lão đại bi thương vị phất y
Đỗ Phủ
(ngồi trước rượu ở Khúc Giang)
(ngồi bên ngoài vườn ngự, gần sông, không muốn về)
(cung Thủy tinh đã chuyển dần mờ nhạt)
(hoa đào lác đác theo hoa lê rơi rụng)
(chim vàng đôi khi bay theo chim trắng)
(uống nhiều nên đã lâu bị người ruồng bỏ)
(lười biếng đi chầu, thật là trái lẽ thường)
(gắn bó với chức quan nên việc ở ẩn còn xa vời)
(thương cho tuổi đã già mà chưa được rũ áo)
Ngồi Uống Rượu Ở Khúc Giang
Vườn ngự bên sông
Ngồi yên tĩnh lặng
Cung Thủy mờ dần chìm vào đêm vắng
Đào, lê lác đác rơi rụng đó đây
……
Chim vàng soải cánh
Chim trắng nhập đàn
Ta mê rượu, bị đời chán ngán
Biếng đi chầu, thật chẳng bình thường
…..
Nghỉ ngơi chưa được
Việc triều còn vương
Phải lui tới chốn quan trường
Tuổi già cặm cụi nghĩ thương thân mình
SongNguyễn HànTú
曲 江 花
浮 香 繞 曲 岸
圓 影 覆 花 池
常 恐 愁 風 早
飄 零 君 不 知
盧 照 鄰
Khúc Giang Hoa
Phù hương nhiễu khúc ngạn
Viên ảnh phú hoa trì
Thường khủng thu phong tảo
Phiêu linh quân bất tri
Lư Chiếu Lân
(hoa ở Khúc Giang)
(làn hương thơm phảng phất ở bờ cong)
(cánh hoa tròn che phủ bờ ao đẹp)
(thường e gió thu tới sớm)
(làm hoa héo rụng mà bạn không hay)
Hoa Khúc Giang
Cong cong bờ nước hữu tình
Hoa tròn hương tỏa mông mênh khắp vùng
E rồi đây gặp thu phong
Cánh hoa héo sớm phụ lòng khách yêu
SongNguyễn HànTú
曲 江 二 首
其 一
一 片 花 飛 減 卻 春
風 飄 萬 點 正 愁 人
且 看 欲 盡 花 經 眼
莫 厭 傷 多 酒 入 唇
江 上 小 堂 巢 翡 翠
茆 邊 高 塚 臥 麒 麟
細 推 物 理 須 行 樂
何 用 浮 名 絆 此 身
杜 甫
Khúc Giang Nhị Thủ
kỳ nhất (bài 1)
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phi thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân
Đỗ Phủ
(hai bài về Khúc Giang)
(bài 1)
(cứ mỗi cánh hoa bay lại làm giảm vẻ xuân)
(gió làm mọi hoa trôi dạt, làm buồn lòng người)
(hãy ngắm tất cả hoa sắp rụng trước mắt)
(đừng ngán để rượu gây đau thương qua môi)
(chim phi thúy làm tổ trên nhà nhỏ ven sông)
(tượng kỳ lân nằm bên mộ cao gần vườn hoa)
(ngẫm cho kỹ lẽ sống của vạn vật thì nên cứ vui chơi)
(thì cần chi vì danh hão mà trói buộc thân này)
Khúc Giang
bài 1
Ôi tiếc quá…!
Kìa hoa bay lả tả
Gió điên cuồng thổi tung hết hoa xuân
Bao xót thương nhìn hoa úa rụng dần
Môi đẫm rượu
Hại nào đâu sá kể
Kìa…nhà nhỏ tổ con chim phi thúy
Bên mộ cao kỳ lân đứng trong vườn
Ngẫm sự đời…có gì đáng vui hơn
Sao trói buộc thân mình danh phù phiếm
SongNguyễn HànTú
曲 江 二 首
其 二
朝 回 日 日 典 春 衣
每 日 江 頭 盡 醉 歸
酒 債 尋 常 行 處 有
人 生 七 十 古 來 稀
穿 花 蛺 蝶 深 深 見
點 水 蜻 蜓 款 款 飛
傳 語 風 光 共 流 轉
暫 時 相 賞 莫 相 違
杜 甫
Khúc Giang Nhị Thủ
kỳ nhị
Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hửu
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến
Điểm thủy tinh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi
Đỗ Phủ
(2 bài viết về Khúc Giang)
(bài 2)
(đi chầu về ngày nào cũng đem áo xuân đi cầm cố)
(mỗi ngày đều đến quán bên sông uống say mới về)
(uống rượu ghi nợ thường đâu cũng có)
(nhưng người sống được 70 tuổi thì xưa nay hiếm có)
(bươm bướm thấp thoáng dưới hoa)
(chuồn chuồn bay chốc chốc lại chạm mặt nước)
(người ta bảo rằng cảnh tượng luôn thay đổi)
(tạm thời ta cứ thưởng thức chứ đừng làm gì khác)
Khúc Giang
bài 2
Tàn chầu trở lại
Cầm cố áo xuân
Say sưa ngày tháng bất cần
Rượu mua thiếu chịu, nợ nần đó đây
Tuổi bảy chục đời này đã hiếm
Mắt còn nhìn bướm lượn vườn hoa
Chuồn chuồn giỡn nước la đà
Thời gian cũng vẫn dần dà chuyển quanh
Hãy cùng tạm hưởng đời mình
SongNguyễn HànTú
曲 江 值 雨
城 上 春 雲 覆 茆 墻
江 亭 晚 色 靜 年 芳
林 花 著 雨 燕 支 落
水 荇 牽 風 翠 帶 長
龍 武 新 軍 深 駐 輦
芙 蓉 別 殿 漫 焚 香
何 時 紹 此 金 錢 會
暫 醉 佳 人 錦 瑟 傍
杜 甫
Khúc Giang Trị Vũ
Thành thượng xuân vân phú uyển tường
Giang đình vãn sắc tĩnh niên phương
Lâm hoa trước vũ yên chi lạc
Thủy hạnh khiên phong thúy đới trường
Long Vũ tân quân thâm trú liễn
Phù Dung biệt điện mạn phần hương
Hà thời thiệu thử “Kim Tiền” hội
Tạm túy giai nhân cẩm sắt bàng
Đỗ Phủ
Tường hoa viên phủ sương mờ
Bên sông đình khói hương đưa trong chiều
Sũng hoa, cành cũng gẫy theo
Đám hoa hạnh rạp theo chiều gió đưa
Đoàn Long Vũ đóng quân chờ
Điện Phù Dung toả mịt mờ hương bay
Bao giờ tiếp hội Kim đây
Tạm thời ta cứ vui say gấm đàn
Đành rằng thuyền đã xuôi dòng
Người đi lưu luyến vời trông bến tình
(gặp mưa nơi sông Khúc)
(mây xuân phủ trên tường vườn hoa trong thành)
(buổi chiều, đình bên sông yên tĩnh với hương mùa)
(hoa rừng đẫm nước mưa rụng xuống từng cành)
(gió lùa vào đám rau hạnh nước thành vệt dài)
(đoàn quân Long Vũ mới tới dừng xe ở lại lâu)
(biệt điện Phù Dung tỏa ngát mùi hương đốt)
(biết bao giờ mới nối tiếp hội “Kim Tiền” ấy)
(tạm thời say với người đẹp bên cây đàn gấm)
Gặp Mưa Nơi Sông Khúc
Tường hoa cao ngất mây che kín
Hương thoảng chiều buông lặng bến đình
Mưa ướt sũng hoa cành gẫy gập
Gió lùa hạnh ngả rợp mầu xanh
Đoàn quân Long Vũ dừng chân mãi
Hương thoảng điện Phù khói quẩn quanh
Hội Kim nối tiếp bao giờ nhỉ
Đàn gấm men say tạm chút tình
SongNguyễn HànTú
曲 江 憶 元 九
春 來 無 伴 閑 遊 少
行 樂 三 分 減 二 分
何 況 今 朝 荇 園 里
閑 人 逢 盡 不 逢 君
白 居 易
Khúc Giang Ức Nguyên Cửu
Xuân lai vô bạn nhàn du thiểu
Hành lạc tam phân giảm nhị phân
Hà huống kim triêu hạnh viên lý
Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân
Bạch Cư Dị
(ở sông Khúc nhớ Nguyên Cửu)
(xuân về, không có bạn, ta ít đi chơi)
(ba phần vui chơi bớt đi hai phần)
(đã vậy, sáng nay trong vườn hạnh)
(gặp đủ mọi người rảnh tới đó mà không gặp anh)
Ở Khúc Giang Nhớ Nguyên Cửu
Chẳng thiết ngao du, vắng bạn bè
Xuân về nào dạ có vui chi
Sáng nay vườn hạnh đông người quá
Chỉ thiếu riêng anh thật não nề
SongNguyễn HànTú
曲 江 春 感
江 頭 日 煖 花 又 開
江 東 行 客 心 悠 哉
高 陽 酒 徒 半 凋 落
終 南 山 色 空 崔 嵬
聖 代 也 知 無 棄 物
侯 門 未 必 用 非 才
滿 般 明 月 一 竿 竹
家 在 五 湖 歸 去 來
羅 隱
Khúc Giang Xuân Cảm
Giang đầu nhật noãn hoa hựu khai
Giang đông hành khách tâm du tai
Cao Dương tửu đồ bán điêu lạc
Chung Nam sơn sắc không thôi ngôi
Thánh đại dã tri vô khí vật
Hầu môn vị tất dụng phi tài
Mãn thuyền minh nguyệt nhất can trúc
Gia tại Ngũ Hồ quy khứ lai
La Ẩn
(cảm nghĩ mùa xuân tại Khúc Giang)
(ở đầu sông nắng ấm hoa lại nở)
(khách đi sông về hướng đông lòng buồn rầu)
(nửa số bạn nhậu ở Cao Dương nay đã xác xơ và lưu lạc)
(dáng núi Chung Nam vẫn cao chót vót)
(đã biết ở triều đình không ai là vật bỏ đi)
(thì ở cửa quan đâu có dùng kẻ bất tài)
(trên thuyền đầy ánh trăng sáng, với một cần câu trúc)
(về lại nhà ở Ngũ Hồ)
NguyễnTâmHàn
Cảm Nghĩ Mùa Xuân Tại Khúc Giang
Nơi đầu sông nắng chói chang hoa nở
Khách theo thuyền lòng buồn bã xuôi đông
Tản mát rồi đán bạn cũ Cao Dương
Chỉ riêng cảnh núi Chung Nam vẫn thế
Nơi triều đình đâu có gì bỏ phế
Thì cửa quan chả dụng kẻ bất tài
Cùng cần câu bên trăng nước sáng ngời
Thôi thì chốn Ngũ Hồ quay về lại
SongNguyễn HànTú
— Bản dịch của Nguy ễnTâmHàn —
Hoa tươi khoe nắng đầu ghềnh
Về Đông lòng khách buồn tênh chán chường
Đâu bè bạn đất Cao Dương
Chỉ Chung Nam vẫn cao vươn đỉnh trời
Triều đình quan chức đủ rồi
Có đâu còn chỗ cho người tài thô
Về ôm cần dưới trăng mơ
Nơi vùng sông nước Ngũ Hồ nương thân
NguyễnTâmHàn
閨 怨 詞
關 山 征 戍 遠
閨 閣 別 離 難
苦 戰 應 憔 悴
寒 衣 不 要 寬
劉 禹 錫
Khuê Oán Từ
Quan san chinh thú viễn
Khuê các biệt ly nan
Khổ chiến ưng tiều tụy
Hàn y bất yếu khoan
Lưu Vũ Tích
(lời oán trong phòng the)
(người lính ra ngoài biên ải xa xôi)
(người ở lại phòng the khốn đốn trong nỗi cách chia)
(chiến đấu gian khổ chắc thân hình khô héo)
(áo lạnh mong không rộng quá)
Lời Oán Trong Khuê Phòng
Từ chàng biên ải xa xôi
Biệt ly vàng võ mảnh đời phòng khuê
Gian nan thân hạc não nề
Thiếp mong áo lạnh vừa che thân gầy
SongNguyễn HànTú
閨 怨
閨 中 少 婦 不 知 愁
春 日 凝 妝 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
王 昌 齡
Khuê Oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Vương Xương Linh
(nỗi ân hận trong phòng riêng)
(trong phòng riêng, người vợ trẻ chưa biết buồn)
(ngày xuân, trang điểm xong nàng lên gác biếc)
(chợt thấy sắc hoa dương liễu ở đầu đường)
(nàng hối hận đã khuyên chồng mưu cầu quan tước)
Vương Xương Linh
Nỗi Lòng
Phấn son đời chửa vương sầu
Ngày xuân trang điểm, lên lầu ngắm hoa
Chợt màu xanh liễu xa xa
Gây lòng cô phụ nhạt nhòa nhớ thương
Xui chàng kiếm nẻo quan trường….
SongNguyễn HànTú
閨 意
洞 房 昨 夜 停 紅 燭
待 曉 堂 前 拜 舅 姑
妝 罷 低 聲 問 夫 婿
畫 眉 深 淺 入 時 無
朱 慶 餘
Khuê Ý
(Cận Thí Thướng Trưong Thủy Bộ)
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc
Đãi hiểu tiền đường bái cữu cô
Trang bãi đê thanh vấn phu tế
Họa mi thâm thiển nhập thời vô
Chu Khánh Dư
(hỏi ý trong phòng riêng)
(gần tới ngày thi trình quan Thủy Bộ họ Trương
[bài này để hỏi ý])
(đêm qua trong phòng tân hôn đã tắt nến)
(đợi sáng sẽ lên nhà trên lạy bố mẹ chồng)
(trang điểm xong, khẽ hỏi chồng)
(vẽ lông mày đậm hay lợt thì hợp thời?)
Hỏi Ý
Động phòng tắt ngọn đèn khuya
Đợi bình minh rạng lạy thưa song đường
Phấn son trang điểm trước gương
Này mình…
Nét liễu dễ thương không nào?
SongNguyễn HànTú
見 螢 火
巫 山 秋 夜 螢 火 飛
疏 簾 巧 入 坐 人 衣
忽 驚 屋 裏 琴 書 冷
復 亂 簷 前 星 宿 稀
卻 繞 井 欄 添 箇 箇
偶 經 花 蕊 弄 煇 煇
滄 江 白 髮 愁 看 汝
來 歲 如 今 歸 未 歸
杜 甫
Kiến Huỳnh Hỏa
Vu sơn thu dạ huỳnh hỏa phi
Sơ liêm sảo nhập tọa nhân y
Hốt kinh ốc lý cầm thư lãnh
Phục loạn thiềm tiền tinh tú hi
Khước nhiễu tĩnh lan thiêm cá cá
Ngẫu kinh hoa nhị lộng huy huy
Thương giang bạch phát sầu khán nhữ
Lai tuế như kim quy bất quy
Đỗ Phủ
(xem đom đóm)
(ở núi Vu, đêm Thu đom đóm bay ra)
(chúng khéo bay lọt rèm thưa bậu vào áo người)
(chợt ngán hơi lạnh từ đàn và sách)
(chúng trở lại bay loạn trước thềm như sao sa)
(đã đua nhau bay vòng quanh bờ giếng)
(lại còn tình cờ đùa dỡn trong nhị hoa lấp lánh)
(kẻ tóc bạc sông Thương buồn bã xem tụi bay)
(chẳng biết năm tới ngày này có trở lại được không?)
Xem Đom Đóm
Núi Vu đom đóm lập lòe bay
Khéo lọt rèm thưa đậu áo người
Chắc sợ sách đàn phòng giá lạnh
Ngoài thềm bay loạn ngỡ sao rơi
…
Lập lòe cạnh giếng ánh chớp xanh
Đùa bỡn bên hoa thật vô tình
Đầu bạc bên sông sầu quạnh quẽ
Liệu sang năm có tới vây quanh ?
SongNguyễn HànTú
缺 題
道 由 白 雲 盡
春 與 清 溪 長
時 有 落 花 至
遠 隨 流 水 香
閑 門 向 山 路
深 柳 讀 書 堂
幽 映 每 白 日
清 煇 照 衣 裳
劉 脊 虛
Khuyết Đề
Đạo do bạch vân tận
Xuân dữ thanh khê trường
Thời hữu lạc hoa chí
Viễn tùy lưu thủy hương
Nhàn môn hướng sơn lộ
Thâm liễu độc thư đường
U ánh mỗi bạch nhật
Thanh huy chiếu y thường
Lưu Tích Hư
thiếu đầu bài
(đường theo mây trắng hết [ở chân trời] )
( xuân về trên suối trong và dài)
(lâu lâu có hoa rụng bay tới)
(làn hương thơm theo dòng nước đi xa)
(cửa nhàn trông ra con đường vào núi)
(nhà đọc sách có liễu che mát)
(mỗi khi nắng lên có chỗ mát chỗ sáng)
(phản chiếu trên quần áo)
Bài Không Tên
Nẻo đường mây trắng không cùng
Suối xuân giải ngọc xanh trong chảy dài
Lững lờ vài cánh hoa rơi
Trôi theo dòng nước tỏa mùi hương thơm
Theo đường núi ghé nhàn môn
Lung lay nhánh liễu rủ buông thư phòng
Vầng dương sáng tỏa chập chùng
Ánh lên mầu áo sắc hồng chói chang
Không Đề
Đường cùng tận nơi cuối trời mây trắng
Suối xanh lơ giữa xuân sắc mơ màng
Cánh hoa rơi theo làn gió bay ngang
Hương lan tỏa mơ hồ theo ánh nước
Nhìn đường núi hướng cửa nhà mặt trước
Liễu rủ buông che kín lối thư phòng
Trời ban ngày ánh dương tỏa mông lung
Tia nắng nhạt mơ hồ vương trên áo
SongNguyễn HànTú
同 谷 縣 作 歌 七 首
有 客 有 客 字 子 美
白 頭 亂 髮 垂 過 耳
歲 拾 椽 栗 隨 狙 公
天 寒 日 暮 山 谷 裡
中 原 無 書 歸 不 得
手 腳 凍 皴 皮 肉 死
嗚 呼 一 歌 兮 歌 已 哀
悲 風 為 我 從 天 來
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ Hữu khách hữu khách tự Tử Mỹ
Bạch đầu loạn phát thùy quá nhĩ
Tuế thập tượng lật tùy thư công
Thiên hàn nhật mộ sơn cốc lý
Trung nguyên vô thư quy bất đắc
Thủ cước đống thuân bì nhục tử
Ô hô! Nhất ca hề ca dĩ tai
Bi phong vị ngã tòng thiên lai
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)
(có gã, có gã tên tự là Tử Mỹ)
(tóc trắng rối bù dài xuống quá tai)
(cả năm đi theo người nuôi khỉ lượm trái tượng lật)
(vào tuốt hang núi đến chiều tối giá lạnh)
(không có thư từ trung nguyên lên mà về thì không được)
(tay chân tê cóng, da thịt như chết)
(Than ôi! Mới ca một lần mà đã ai oán)
(gió thương cảm ta mà thổi từ trời xuống)
Ghi chú: Năm 759 Đỗ Phủ dời gia quyến tới huyện Đồng Cốc (nay là huyện Thành, tỉnh
Cam Túc) sống đời nghèo khổ.
Kiền Nguyên là niên hiệu của vua Đường Túc Tôn (con Đường Minh Hoàng)
Tử Mỹ là tên tự của Đỗ Phủ. Tượng lật là trái cây tựa như trái vải, hột như hột sen.
Bẩy Bài Ca Làm Tại Đồng Cốc
bài 1
Có một gã tên gọi là Tử Mỹ
Đầu bạc phơ
Tóc dài phủ quá tai
Mỗi năm đi nhặt tượng lật cùng người
Trong hang núi đêm tối mò lạnh giá
Tin nhà vắng mà về thì xa quá
Trời lạnh lùng da tím ngắt tái tê
Than ôi!
Tiếng ca buồn nghe ray rứt lê thê
Gió gào thét cùng lời ta ai oán
SongNguyễn HànTú
同 谷 縣 作 歌 七 首
長 鑱 長 鑱 白 木 柄
我 生 託 子 以 為 命
黃 精 無 苗 山 雪 盛
短 衣 數 挽 不 掩 脛
此 時 與 子 空 歸 來
男 呻 女 呤 四 壁 靜
嗚 呼 二 歌 兮 歌 始 放
鄰 里 為 我 色 惆 悵
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ nhị
Trường xàm trường xàm bạch mộc bính
Ngã sinh thác tử dĩ vi mệnh
Huỳnh tinh vô miêu sơn tuyết thạnh
Đoản y sổ vãn bất yễm hĩnh
Thử thời dữ tử không quy lai
Nam thân nữ ngâm tứ bích tĩnh
Ô hô! Nhị ca hề ca thủy phóng
Lân lý vị ngã sắc trù trướng
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)
kỳ nhị
(hỡi cuốc dài, cuốc dài có cán bằng gỗ trắng)
(mạng sống của ta trông nhờ cả ở mi)
(cỏ năng không có củ, tuyết núi lại rơi nhiều)
(áo ngắn kéo hoài cũng không che được bắp chân)
(lúc đó ta và mi về nhà tay không)
(con trai , con gái rên lên vì đói trong bốn bức vách yên tĩnh)
(Than ôi! Ca lần thứ hai, lời ca vừa phát)
(bà con lối xóm thương ta mà vẻ mặt đều buòn bã)
bài 2
Cuốc dài, cuốc ngắn
Cán gỗ trắng mờ
Cuốc ơi….nhờ cuốc ta no
Tuyết giờ phủ ngập, cỏ co ngủ vùi
Áo manh che chẳng tới đùi
Trở về…ta, cuốc ngậm ngùi tay không
Con rên rỉ
Đói nằm cong
Nghêu ngao than vãn nỗi lòng ngổn ngang
Người quanh nghe cũng ngỡ ngàng
SongNguyễn HànTú
同 谷 縣 作 歌 七 首
有 弟 有 弟 在 遠 方
三 人 客 瘦 何 人 強
生 別 展 轉 不 相 見
胡 塵 暗 天 道 路 長
前 飛 駕 鵝 後 鶖 鶬
安 得 送 我 置 汝 旁
嗚 呼 三 歌 兮 歌 三 發
汝 歸 何 處 收 兄 骨
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ tam
Hữu đệ hữu đệ tại viễn phương
Tam nhân các sấu hà nhân cường
Sinh biệt triển chuyển bất tương kiến
Hồ trần ám thiên đạo lộ trường
Tiền phi giá nga, hậu thu thương
An đắc tống ngã trí nhữ bàng
Ô hô! Tam ca hề ca tam phát
Nhữ quy hà xứ thâu huynh cốt
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)
kỳ tam
(có các em trai, em trai ở phương xa)
(ba người ai cũng gày ốm, chẳng ai mạnh)
(sống xa nhau, nhớ nhau, nhưng chẳng thấy nhau)
(ở đất Hồ này đầy bụi, ngày u ám và đường xá xa xôi)
(chim giá nga bay trước, chim thu thương bay sau)
(phải chi đưa ta tới được bên các em)
(Than ôi! Bài ca thứ ba, thứ ba đã phát)
(các em biết về đâu thâu nhặt xương anh?)
Ghi chú: chim giá nga giống như chim nhạn, chim thu thương giống như chim hạc.
Bảy Bài Ca Làm Tại Đồng Cốc
bài 3
Mấy anh em sao mỗi người một ngả
Cũng gày còm, cũng thân thể xác xơ
Cách xa nhau đêm trằn trọc mong chờ
Xa vời quá…
anh biên cương sầu muộn !
Nhìn sau trước chim nhởn nhơ bay lượn
Hỡi chim trời giúp ta tới bên em
Ba lần ca tiếng chất nặng ưu phiền
Tìm đâu nhặt xương anh, em yêu dấu ?
SongNguyễn HànTú
有 妹 有 妹 在 鍾 離
良 人 早 歿 諸 孤 痴
長 淮 浪 高 蛟 龍 怒
十 年 不 見 來 何 時
扁 舟 欲 往 箭 滿 眼
杳 杳 南 國 多 旌 旗
嗚 呼 四 歌 兮 歌 四 奏
林 猿 為 我 啼 清 晝
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ tứ
Hữu muội hữu muội tại Chung Ly
Lương nhân tảo một chư cô si
Trường Hoài lãng cao giao long nộ
Thập niên bất kiến lai hà thời
Thiên chu dục vãng tiễn mãn nhãn
Yểu yểu nam quốc đa tinh kỳ
Ô hô tứ ca hề ca tứ tấu
Lâm viên vị ngã đề thanh trú
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)
kỳ 4
(có em gái, em gái tại huyện Chung Ly)
(chồng mất sớm, các con còn thơ dại)
Trường Hoài lãng cao giao long nộ (dòng sông Hoài dài sóng lớn có thuồng luồng dữ)
(10 năm chưa gặp, bao giờ mới tới anh)
(thuyền nhỏ toan đi nhưng tên bay trước mắt)
(miền nam mù mịt cờ xí [loạn lạc] )
(than ôi! Bài ca thứ tư đã tấu)
(vượn trong rừng vì ta mà kêu trong ban ngày khô ráo)
Ghi chú: huyện Chung Ly và sông Hoài đều thuộc tỉnh An Huy.
bài 4
Có người em gái
Nương đất Chung Ly
Cuộc tình sớm cảnh phân ly
Đàn con côi cút, xuân thì lao đao
Mặt sông Hoài
Sóng dâng cao
Giao long nổi giận
Em bao giờ về?
Mười năm thương nhớ não nề
Muốn đi nhưng ngặt tứ bề đạn tên
Cờ xí ngập trời Nam
Than ôi!
Bốn lần ca ai oán
Loài vượn rừng hú thảm giữa bình minh
SongNguyễn HànTú
寒 雨 颯 颯 枯 樹 濕
黃 蒿 古 城 雲 不 開
白 狐 跳 梁 黃 狐 立
我 生 何 為 在 窮 谷
中 夜 起 坐 萬 感 集
嗚 呼 五 歌 兮 歌 正 長
魂 招 不 來 歸 故 鄉杜 甫Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ
kỳ ngũ
Tứ sơn đa phong khê thủy cấp
Hàn vũ táp táp khô thụ thấp
Hoàng hao cổ thành vân bất khai
Bạch hồ khiêu lương, hoàng hồ lập
Ngã sinh hà vi tại cùng cốc
Trung dạ khởi tọa vạn cãm tập
Ô hô! Ngũ ca hề ca chính trường
Hồn chiêu bất lai quy cố hương
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Các thời niên hiệu Kiền Nguyên)
kỳ ngũ
(núi 4 bên đều có gió, nước suối chảy gấp)
(mưa lạnh đổ ào ào làm cây khô sũng nước)
(cỏ vàng mọc ở cổ thành, mây không có kẽ hở)
(chồn trắng nhảy nhót, chồn vàng đứng yên)
(sao cuộc đời ta lại ở nơi cùng cốc này?)
(trong đêm ngồi dậy với hàng vạn cảm nghĩ hình thành)
(Than ôi! Bài ca thứ năm đang ngân dài)
(gọi hồn về quê cũ mà không được)
bài 5
Bốn phía núi…gió gào…suối tuôn chảy xiết
Mưa lạnh lùng
Cây sũng nước khắp nơi
Thành cỏ vàng giăng…mây phủ ngập trời
Chồn chạy nhảy lăng xăng trên đồng vắng
Chốn hang cùng…
Ta cuộc đời cay đắng
Giữa đêm trường, lòng ngập những sầu tư
Năm lời ca…hề…sao quá não nề
Hồn vời vọng quê nhà sầu chất ngất
SongNguyễn HànTú
同 谷 縣 作 歌 七 首
古 木 寵 嵷 枝 相 樛
木 葉 黃 落 龍 正 蟄
蝮 蛇 東 來 水 上 游
我 行 怪 此 安 敢 出
拔 劍 欲 斬 且 復 休
嗚 呼 六 歌 兮 歌 思 遲
溪 壑 為 我 迴 春 姿杜 甫Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ
kỳ lục
Nam hữu long hề tại sơn tưu
Cổ mộc sủng tùng chi tương cù
Mộc diệp hoàng lạc long chính trập
Phúc xà đông lai thủy thượng du
Ngã hành quái thử an cảm xuất
Bạt kiếm dục trảm thả phục hưu
Ô hô lục ca hề ca tứ trì
Khê hác vị ngã hồi xuân tư
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc Thời Niên Hiệu Kiền Nguyên)
kỳ lục
(phía nam có con rồng ở trong đầm núi)
(cây cổ thụ mến núi cao cành quấn quít vào nhau)
(lá cây úa rụng, rồng đang chìm ẩn)
(rắn độc từ phương đông tới, bơi trên mặt nước)
(ta thấy quái lạ, rắn tìm chỗ núp không dám ló ra)
(ta rút kiếm toan chém nhưng rồi lại thôi)
(Than ôi! Bài ca thứ sáu, ý ca chậm rãi)
(suối nguồn vì ta quanh co dáng vẻ xuân)
Bài 6
Nơi đầm núi phía nam rồng lẩn khuất
Cây cao vời, cành vướng vít xum xuê
Rồng ẩn sâu trong lá độ thu về
Đoàn rắn độc nhởn nhơ trên mặt nước
Thấy cảnh lạ,
Tính vung gươm trừ độc
Bỗng nghe lòng trắc ẩn lại xuôi tay
Sáu lần ca…lời ai oán đất này
Dòng suối lượn chung quanh mầu xuân sắc
SongNguyễn HànTú
同 谷 縣 作 歌 七 首
三 年 饑 走 荒 山 道
長 安 卿 相 多 少 年
富 貴 應 須 致 身 早
山 中 儒 生 舊 相 識
但 話 宿 昔 傷 懷 抱
嗚 呼 七 歌 兮 悄 終 曲
仰 視 黃 天 白 日 速杜 甫Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư
Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ
kỳ thất
Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão
Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo
Trường An khanh tướng đa thiếu niên
Phú quý ưng tu trí thân tảo
Sơn trung hữu nho sinh cựu tương thức
Đản thoại túc tích thương hoài bão
Ô hô thất ca hề tiễu chung khúc
Ngưỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc
Đỗ Phủ
(làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện
Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)
kỳ thất
(thân trai sinh ra chưa thành danh thì thân đã già)
(đã 3 năm đói khổ lang thang trên miền núi này)
(bây giờ ở Trường An quan quyền đa số là người trẻ)
(tất nhiên họ đã sớm được hưởng phú quý)
(trong núi có gã học trò ta quen biết từ trước)
(chỉ nói chuyện xưa thương cho mộng ước [không thành] )
(Than ôi! Đây là bài 7, khúc cuối của những bài ca buồn)
(ngửng trông trời vàng, ngày trắng qua mau)
Bài 7
Sống chửa nên thân đã thấy già
Quẩn nơi rừng núi mấy năm qua
Trường An khanh tướng bao người trẻ
Võng lọng sang giàu, đỉnh vinh hoa
…
Bầu bạn giữa rừng một ngưòi quen
Chuyện xưa hoài bão…chuyện sách đèn
Bảy lần than thở…liên sầu khúc
Ngẩng mặt nhìn trời… đã nhá nhem
SongNguyễn HànTú
見 渭 水 思 秦 川
渭 水 東 流 去,
何 時 到 雍 州.
憑 添 兩 行 淚,
寄 向 故 園 流.
岑 參
Kiến Vị Thủy Tư Tần Xuyên
Vị Thủy dông lưu khứ
Hà thời đáo Ung châu
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ
Ký hướng cố viên lưu
Sầm Tham
(thấy sông Vị nhớ đất Tần)
(nước sông Vị chảy về phía đông)
(khi nào chảy tới Ung châu? )
(xin gửi theo hai hàng lệ)
(sông có chảy qua vườn (quê) cũ cho ta gửi cùng)
Thấy Sông Vị Nhớ Đất Tần
Bài 1
Sông Vị nước xuôi dòng
Bao giờ đến châu Ung
Cho gởi đôi dòng lệ
Về chốn gởi tim lòng
Bài 2
Nước sông Vị xuôi về đông chảy mãi
Này nước ơi bao giờ đến châu Ung
Cho ta gửi đôi dòng châu tê tái
Về vườn xưa nơi ấp ủ tim lòng
SongNguyễn HànTú
結 襪 子
燕 南 壯 士 吳 門 豪
竹 中 置 鉛 魚 隱 刀
感 君 恩 重 許 君 命
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
李 白
Kết Miệt Tử
Yên nam tráng sĩ Ngô Môn hào
Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao
Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh
Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao
Lý Bạch
ịch nghĩa
(gã đan vớ)
(tráng sĩ miền nam nướcYên và hào kiệt đất Ngô Môn)
(dấu dao cùn trong đàn trúc, dấu đao trong bụng cá)
(cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn)
(gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng)
Ghi chú: Kết miệt tử, theo điển tích dài dòng, chỉ người quyết chí báo ơn.
Yên, tên nước thời chiến quốc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc
Ngô Môn, tên huyện, tỉnh Cam Túc
Gã đan vớ
Bậc hào kiệt đất Yên, Ngô một thủa
Đã trong đàn, trong bụng cá dấu dao
Nặng ơn vua mang chí khí anh hào
Dâng mạng sống, núi Thái Sơn coi nhẹ
SongNguyễn HànTú
金 谷 園
繁 華 事 散 逐 香 塵
流 水 無 情 草 自 春
日 暮 東 風 怨 啼 鳥
落 花 猶 似 墜 樓 人
杜 牧
Kim Cốc Viên
Phồn hoa sự tán trục hương trần
Lưu thủy vô tình thảo tự xuân
Nhật mộ đông phong oán đề điểu
Lạc hoa do tự trụy lâu nhân
Đỗ Mục
(vườn Kim Cốc)
(những việc xa xỉ náo nhiệt đã tàn theo lớp bụi thơm)
(nước vô tình chảy, cỏ tự mang vẻ xuân)
(chiều xuống, chim hót ai oán trong gió đông)
(cánh hoa rụng mà còn như người nhảy lầu [tự tử] )
Ghi chú : Kim Cốc là tên vườn thời xưa, ở huyện Lạc Dương tỉnh Hà Nam ngày nay.
Đời Tấn, Thạch Sùng xây cho người thiếp là Lục Châu ở. Tôn Tú đòi
Thạch Sùng nhường thiếp cho mình. Lục Châu nhảy lầu tự tử.
Vườn Kim Cốc
Phồn hoa rũ sạch
Chẳng thế gian hương
Nước hờ hững,
nét xuân vương
Gió chiều Đông tiếng chim muông thêm sầu
Hoa rơi…
như cảnh nhảy lầu !!!
SongNguyễn HànTú
金 陵
六 代 興 亡 國
三 杯 為 爾 歌
茆 方 秦 地 少
山 似 洛 陽 多
古 殿 吳 花 草
深 宮 晉 綺 羅
併 隨 人 事 滅
東 遊 與 滄 波
李 白
Kim Lăng
Lục đại hưng vong quốc
Tam bôi vị nhữ ca
Uyển phương Tần địa thiểu
Sơn tự Lạc Dương đa
Cổ điện Ngô hoa thảo
Thâm cung Tấn ỷ la
Tinh tùy nhân sự diệt
Đông du dữ thương ba
Lý Bạch
(thành Kim Lăng)
(sáu triều đại khởi lên và mất đi tại đây)
(mời ông 3 chén rượu và hát cho ông nghe)
(so với đất Tần ít vườn hơn)
(nhưng nhiều núi như miền Lạc Dương)
(cung điện cổ đời Ngô có hoa và cỏ)
(trong cung cũ đời Tấn [phơi] lụa là)
(tất cả truyện xưa đã hết)
(chuyến đi chơi phương đông chỉ còn nhìn sóng xanh)
Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay.
Lục đại : sáu triều đại đã đóng đô ở Kim Lăng gồm Đông Ngô,
Đông Tấn, Tống, Tề, Lương và Trần.
Kim Lăng
Giang Sơn đó đã sáu triều thay đổi
Mời vài ly, thấm giọng hát cho nghe
So với Tần dù hơi ít vườn huê
Nhưng lại giống như Lạc Dương nhiều núi
Vùng đất Ngô đền đài hoa ngập lối
Cung Tấn xưa lụa giăng khắp cung sâu
Đã tàn rồi theo năm tháng còn đâu
Viếng Đông chỉ mơ màng bên sóng nước
SongNguyễn HànTú
金 陵 圖
江 雨 霏 霏 江 草 齊
六 朝 如 夢 鳥 空 啼
無 情 最 是 臺 城 柳
依 舊 煙 籠 十 里 堤
韋 莊
Kim Lăng Đồ
Giang vũ phi phi giang thảo tề
Lục triều như mộng điểu không đề
Vô tình tối thị Đài Thành liễu
Y cựu yên lung thập lý đê
Vi Trang
(bức tranh Kim Lăng)
(trên sông, mưa bay lất phất, cỏ mọc ngay ngắn)
(sáu triều đại qua như mộng, chim hót trong không gian)
(dặng liễu trên Đài Thành là vô tình nhất)
(vẫn chìm trong sương khói trên con đê 10 dặm như xưa)
Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay, Đài Thành là một địa danh trong
thành phố đó.
Kim Lăng
Mưa bay phơn phớt
Giải cỏ xanh xanh
Còn đâu chốn cũ kinh thành
Sáu triều đại đã qua nhanh hững hờ
Tiếng chim lạc lõng bơ vơ
Còn như xưa chỉ riêng bờ liễu xanh
Trong sương ngày tháng vô tình
Đứng bên đê cũ Đài Thành ngả nghiêng
SongNguyễn HànTú
金 陵 懷 古
玉 樹 歌 殘 王 气 終
景 陽 兵 合 戍 樓 空
楸 梧 遠 近 千 官 塚
禾 黍 高 低 六 代 宮
石 燕 拂 雲 晴 亦 雨
江 豚 吹 浪 夜 還 風
英 雄 一 去 豪 華 盡
唯 有 青 山 似 雒 中
許 渾
Kim Lăng Hoài Cổ
Ngọc Thụ ca tàn vương khí chung
Cảnh Dương binh hợp thú lâu không
Thu ngô viễn cận thiên quan trũng
Hòa thử cao đê lục đại cung
Thạch yến phất vân tình diệc vũ
Giang đồn xuy lãng dạ hoàn phong
Anh hùng nhất khứ hào hoa tận
Duy hữu thanh sơn tự Lạc Trung
Hứa Hồn
(nhớ chuyện xưa ở Kim Lăng)
(bài ca Ngọc Thụ đã tàn, khí thế vua đã hết)
(quân lính họp ở cung Cảnh Dương, lầu canh bỏ trống)
(mồ mả của cả ngàn quan chức thấp thoáng bên cây thu ngô)
(cung điện thời Lục Triều nhấp nhô trong đám lúa )
(yến núi bay vào mây, trời tạnh rồi lại mưa)
(cá heo quẫy sóng, đêm gió vẫn còn)
(một khi anh hùng đã khuất thì vẻ hào hoa cũng không còn)
(chỉ còn núi xanh giống như ở Lạc Trung)
Ghi chú : Kim Lăng là Nam Kinh ngày nay. Bài ca Ngọc Thụ và cung Cảnh Dương thuộc
về vua Trần Hậu Chủ, ông vua cuối cùng ở Kim Lăng bị nhà Tùy diệt.
Kim Lăng Hoài Cổ
Vương khí hết, Ngọc Thụ thôi vang vọng
Lính tụ về dinh Cảnh bỏ lầu canh
Mộ quan xưa thu ngô đứng rải quanh
Trước dinh thự lúa mọc hoang lởm chởm
Loài thạch yến bay tung mây chiều, sớm
Cá giang đồn thổi sóng giữa canh khuya
Đấng hùng anh đã biền biệt không về
Còn chăng chỉ núi xanh như vùng Lạc
SongNguyễn HànTú
金 陵 酒 肆 留 別
風 吹 柳 花 滿 店 香
吳 姬 壓 酒 喚 客 嘗
金 陵 子 弟 來 相 送
欲 行 不 行 各 盡 觴
請 君 試 問 東 流 水
別 意 與 之 誰 短 長
李 白
Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt
Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương
Ngô cơ áp tửu hoán khách thường
Kim Lăng tử đệ lai tương tống
Dục hành bất hành các tận trường
Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy
Biệt ý dữ chi thùy đoản trường
Lý Bạch
(viết lúc chia tay quán rượu ở Kim Lăng)
(gió đưa hương hoa liễu thơm ngát cả quán)
(cô gái đất Ngô chắt rượu ra mời khách nếm)
(con em ở Kim Lăng đều đến đưa tiễn)
(kẻ đi người ở đều uống cạn chén)
(xin ông hãy thử hỏi dòng nước chảy về phía đông này)
(lòng buồn vì ly biệt với dòng sông, ai ngắn ai dài )
Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay.
Lời Từ Biệt Trong Quán Rượu
Gió phảng phất mùi liễu hương ngập quán
Bàn tay ngà người chắt rượu đãi mời
Kẻ thân quen đất Kim cảm tình tôi
Ghé lại quán ngỏ lời chào từ biệt
Đi hay ở…?
Nào đâu ai đã biết
Nhưng rượu mời thì hẳn phải cạn ly
Hãy hỏi dòng nước chảy xuống đông kia
Ý ly biệt dài bằng nguồn nước cuốn ?
SongNguyễn HànTú
金 縷 衣
勸 君 莫 惜 金 縷 衣
勸 君 惜 取 少 年 時
花 開 堪 折 直 須 折
莫 待 無 花 空 折 枝
杜 秋 娘
Kim Lũ Y
Khuyến quân mạc tích kim lũ y
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi
Đỗ Thu Nương
(áo tơ vàng)
(khuyên chàng đừng tiếc áo tơ vàng [mộng công hầu] )
(xin chàng hãy tiếc cho tuổi thanh xuân [của thiếp] }
(hoa nở đến lúc bẻ được thì bẻ ngay)
(đừng đợi đến lúc hoa rụng chỉ còn nước bẻ cành không)
Thanh Xuân
Tiếc gì tấm áo tơ vàng
Thanh xuân đừng để bẽ bàng qua đi
Ngắt hoa từ độ đương thì
Mai đây hoa rụng ngắt chi lá cành
SongNguyễn HànTú
經 杜 甫 舊 宅
浣 花 溪 裡 花 深 處
為 憶 先 生 在 蜀 時
萬 古 只 應 留 舊 宅
干 金 無 復 得 新 詩
沙 崩 水 檻 鷗 飛 盡
樹 壓 村 橋 馬 過 遲
山 月 不 知 人 事 變
夜 來 江 上 與 誰 期
蘿 陶
Kinh Đỗ Phủ Cựu Trạch
Hoãn Hoa khê lý hoa thâm xứ
Vi ức tiên sinh tại Thục thời
Vạn cổ chỉ ưng lưu cựu trạch
Thiên kim vô phục đác tân thi
Sa băng thủy hạm âu phi tận
Thụ áp thôn kiều mã quá trì
Sơn nguyệt bất tri nhân sự biến
Dạ lai giang thượng dữ thùy kỳ?
Ung Đào
(qua nhà cũ của Đỗ Phủ)
(ở nơi hoa nở sâu kín bên suối Hoãn Hoa)
(tôi nhớ tới tiên sinh lúc ông sinh sống trên đất Thục)
(để lại muôn đời sau có lẽ chỉ có ngôi nhà này)
(có trả ngàn vàng cũng không thể có dược bài thơ mới)
(cát lở sụp hiên bên sông, hải âu bay đi hết)
(cây lấn áp cầu làm ngựa phải chạy chậm)
(trăng miền núi không biết đời người đã thay đổi)
(đêm đêm vẫn cứ hò hẹn với ai trên sông thế? )
Ghi chú : Hoãn Hoa khê là dòng suối ở tây nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, là nơi
Đỗ Phủ dựng ngôi nhà tranh cùng gia quyến sinh sống một thời gian.
Qua Nhà Cũ Của Đỗ Phủ
Hoa vẫn nở cạnh Hoãn Hoa suối vắng
Đất Thục thời người tá túc nơi đây
Bao nhiêu năm cũng chỉ mái tranh này
Bài thơ mới giờ ngàn vàng chẳng được
Bờ cát sụp, chim hải âu bay hết
Cây um tùm, chậm bước ngựa qua cầu
Trăng vô tình nào hay chuyện bể dâu
Vẫn hò hẹn cùng ai bên sông vắng
SongNguyễn HànTú
麂
永 與 清 谿 別
蒙 將 玉 饌 俱
無 才 逐 仙 隱
不 敢 恨 庖 廚
亂 世 輕 全 物
微 聲 及 禍 樞
衣 冠 兼 盜 賊
饕 餮 用 斯 須
杜 甫
Kỷ
Vĩnh dữ thanh khê biệt
Mông tương ngọc soạn câu
Vô tài trục tiên ẩn
Bất cảm hận bào trù
Loạn thế khinh toàn vật
Vi thanh cập họa xu
Y quan kiêm đạo tặc
Thao thiết dụng tư tu
Đỗ Phủ
(con hoẵng)
(vĩnh biệt dòng suối trong)
(đành sắp bị làm thức ăn ngon rồi)
(không có tài theo các vị tiên ẩn thân)
(lại cũng không dám oán hận các tay đầu bếp)
(vì thời loạn mọi vật đều bị coi nhẹ)
(một tiếng nhỏ cũng đủ mang họa)
(bọn quan quyền cũng là bọn trộm cướp)
(phải gọi là bọn tham ăn hung dữ mới đúng)
Con Hoẵng
Vĩnh biệt nhé khe suối xanh trong trẻo
Ta sắp lên để làm món ăn ngon
Chẳng có tài như tiên chồn thiên sơn
Đâu dám trách bọn phổ ky hạ thủ
Thời loạn lạc dễ thường hay uổng tử
Vừa hé môi là họa gió tai bay
Đám quan viên nào khác lũ cướp ngày
Họ thật đúng loài tham ăn hung dữ
SongNguyễn HànTú
寄 杜 位
寒 日 經 簷 短
窮 猿 失 木 悲
峽 中 為 客 久
江 上 憶 君 時
天 地 身 何 在
風 塵 病 敢 辭
封 書 兩 行 淚
沾 洒 浥 新 詩
杜 甫
Ký Đỗ Vị
Hàn nhật kinh thiềm đoản
Cùng viên thất mộc bi
Giáp trung vi khách cữu
Giang thượng ức quân thời
Thiên địa thân hà tại
Phong trần bịnh cảm từ
Phong thư lưỡng hàng lệ
Triêm sái ấp tân thi
Đỗ Phủ
(gởi Đỗ Vị)
(những ngày lạnh qua thềm ngắn)
(con vượn cùng khốn vì mất cây nương tựa, buồn bã)
(ta lưu lạc nơi thung lũng này đã khá lâu)
(lúc ở trên sông ta nhớ bác)
(ta ở đâu trong khoảng trời đất này?)
(đã đầy gió bụi mà bệnh tật cũng không tha ta)
(lúc dán thư hai hàng lệ chứa chan)
(làm ướt cả bài thơ mới làm)
Gởi Đỗ Vị
Mùa đông lạnh mặt trời đi ngủ sớm
Vượn cùng đường cũng mất chỗ nương thân
Kiếp xa nhà nơi thung lũng chôn chân
Trên sông vắng lòng ngẩn ngơ nhớ bạn
Giữa trời đất đời mang nhiều hoạn nạn
Sống nổi trôi mà bệnh tật đâu từ
Lệ tuôn trào lúc cúi dán bì thư
Rơi ưới đẫm cả bài thơ mới viết
SongNguyễn HànTúM
寄 揚 州 韓 綽 判 官
青 山 隱 隱 水 迢 迢
秋 盡 江 南 草 木 凋
二 十 四 橋 明 月 夜
玉 人 何 處 教 吹 簫
杜 牧
Ký Dương Châu Hàn Xước Phán Quan
Thanh sơn ẩn ẩn thủy điều điều
Thu tận Giang Nam thảo mộc điêu
Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ
Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu
Đỗ Mục
(gửi phán quan Hàn Xước ở Dương Châu)
(núi xanh mờ mờ, nước chảy về xa xa)
(ở Giang Nam mùa thu đã hết, cây cỏ xác xơ)
(đêm trăng sáng chiếu trên cầu hiệu 24)
(những người ngọc nay đi dạy thổi sáo nơi đâu?)
Ghi chú : Nhị Thập Tứ kiều, ở huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô.
Xưa có 24 cô gái thổi sáo tại đây, nên cầu mang tên này.
Gởi Phán Quan Hàn Xước Ở Dương Châu
Núi trùng điệp, nước xuôi dòng trôi mãi
Chốn Giang Nam cỏ xơ xác thu tàn
Đây cầu xưa vẫn trăng sáng mơ màng
Người ngọc cũ, âm tiêu xưa giờ vắng
SongNguyẽn HànTú
寄 韓 鵬
為 正 心 閒 物 自 閒
朝 看 飛 鳥 暮 飛 還
寄 書 河 上 神 明 宰
羨 爾 城 頭 姑 射 山
李 頎
Ký Hàn Bằng
Vi chính tâm nhàn vật tự nhàn
Triêu khan phi điểu mộ phi hoàn
Ký thư Hà Thượng thần minh tể
Tiện nhĩ thành đầu Cô Dịch sơn
Lý Kỳ
(gửi Hàn Bằng)
(làm việc quan, tâm nhàn hạ thì cảnh cũng nhàn hạ)
(sáng coi chim bay đi, chiều bay về)
(viết gừi quan Tể tướng sáng suốt ở Hà Thượng)
(núi Cô Dịch ở đầu thành là chỗ ông ưa thích)
Lý Kỳ
Gởi Hàn Bằng
Bài 1
Việc quan, lòng nhẹ, cũng an nhàn
Như dấu chim bay chẳng muộn phiền
Gửi thư quan Tể nơi Hà Thượng
Cô Dịch bên thành chốn thần tiên
Bài 2
Tâm thanh thản, cảnh nhàn quan lộ
Sớm như chiều như độ chim bay
Gởi quan Hà Thượng thư này
Núi thành Cô Dịch nơi ngài vẫn ưa
SongNguyễn HànTú
Tâm trong dù có việc quan
Đường chim quen lối cũng an vậy mà
Gởi quan Tể tướng đất Hà
Đầu thành Cô Dịch cỏ hoa nặng tình
NguyễnTâmHàn
寄 和 州 劉 使 君
別 離 已 久 猶 為 郡
閑 向 春 風 倒 酒 瓶
送 客 將 過 沙 口 堰
看 花 多 上 水 心 亭
曉 來 江 氣 連 城 白
雨 後 山 光 滿 郭 清
到 此 詩 情 應 更 遠
醉 中 高 詠 有 誰 聽
張 籍
Ký Hòa Châu Lưu Sứ Quân
Biệt ly dĩ cửu do vi quận
Nhàn hướng xuân phong đảo tửu bình
Tống khách tương qua Sa Khẩu yển
Khán hoa đa thượng Thủy Tâm đình
Hiểu lai giang khí liên thành bạch
Vũ hậu sơn quang mãn quách thanh
Đáo thử thi tình ưng cánh viễn
Túy trung cao vịnh hữu thùy thinh
Trương Tịch
(gửi sứ quân họ Lưu ờ Hòa Châu)
(xa cách đã lâu mà tôi vẫn làm ở quận đường)
(an nhàn nghiêng bình rượu trước gió xuân)
(tiễn khách thường qua đê Sa Khẩu)
(ngắm hoa thường lên đình Thủy Tâm)
(buổi sáng khí sông phủ trắng nhiều thành)
(sau cơn mưa núi hiện rõ ngoài thành)
(đến đây thì hứng thơ nhẽ ra lên cao)
(nhưng đã say, có ngâm lớn cũng đâu có ai nghe)
Gởi Sứ Quân Họ Lưu
Từ cách biệt, tôi vẫn làm quan quận
Gió xuân về, ngửa cổ nốc men cay
Bước tiễn đưa vẫn Sa Khấu chốn này
Hoa đùa gió trời Thủy Tâm bảng lảng
Bình minh tới sương trên sông rực sáng
Lúc sau mưa núi hiện rõ ngoài thành
Cảnh mơ màng ý thơ đã nẩy sinh
Nhưng say khướt, chắc chả ai nghe vịnh
SongNguyễn HànTú
Xa người, tôi vẫn cửa quan
Nghiêng bình châm rượu an nhàn thưởng xuân
Tiễn người Sa Khấu đưa chân
Gió hoa đùa giữa Thủy Tâm mơ màng
Trên sông sương ánh dương quang
Trời sau mưa núi rỡ ràng biết bao
Ý thơ vời vợi dâng cao
Ngâm nga ….say khướt ….ai nào thèm nghe
NguyễnTâmHàn
寄 李 儋 元 錫
去 年 花 裡 逢 君 別
今 日 花 開 又 一 年
世 事 茫 茫 難 自 料
春 愁 黯 黯 獨 成 眠
身 多 疾 病 思 田 里
邑 有 流 亡 愧 俸 錢
聞 道 欲 來 相 問 訊
西 樓 望 月 幾 回 圓
韋 應 物
Ký Lý Đảm Nguyên Tích
Khứ niên hoa lý phùng quân biệt
Kim nhật hoa khai hựu nhất niên
Thế sự mang mang nan tự liệu
Xuân sầu ảm ảm độc thành miên
Thân đa tật bệnh tư điền lý
Ấp hữu lưu vong quý bổng tiền
Văn đạo dục lai tương vấn tấn
Tây lâu vọng nguyệt kỷ hồi viên
Vi Ứng Vật
(gửi Lý Đảm và Nguyên Tích)
(năm ngoái cùng các ông ở vườn hoa từ biệt)
(hôm nay hoa nở lại đúng 1 năm rồi)
(việc đời mênh mông khó mà tự lo liệu)
(ngày xuân mà buồn ảm đạm nên ngủ một mình)
(trong mình có nhiều bệnh tật, lòng nhớ đồng quê)
(trong ấp có kẻ lưu vong, hổ thẹn còn hưởng bổng lộc)
(được tin các ông sắp lại thăm tôi)
(tôi ngồi trên lầu tây ngắm trăng đã mấy lần trăng tròn)
Gửi Lý Đảm và Nguyên Tích
Mới năm ngoái nơi vườn hoa từ biệt
Đến bây giờ hoa nờ đã tròn năm
Biết làm sao liệu trước việc thế nhân
Trong ảm đạm đêm xuân tìm giấc ngủ
Tâm khắc khoải nằm mơ miền quê cũ
Hưởng lộc đời, hổ thẹn kẻ lưu vong
Nghe bạn thăm tôi có ý ngóng trông
Lầu tây đã mấy tuần trăng trông đợi
SongNguyễn HànTú
妓 人 出 家
盡 出 花 鈿 與 四 鄰
雲 鬟 剪 落 厭 殘 春
暫 驚 風 燭 難 留 世
便 是 蓮 花 不 染 身
貝 葉 欲 翻 迷 錦 字
梵 聲 初 學 誤 梁 塵
從 今 艷 色 歸 空 後
湘 浦 應 無 解 佩 人
楊 郇 伯
Kỹ Nhân Xuất Gia
Tận xuất hoa điền dữ tứ lân
Vân hoàn tiễn lạc yếm tàn xuân
Tạm kinh phong chúc nan lưu thế
Tiện thị liên hoa bất nhiễm thân
Bối diệp dục phiên mê cẩm tự
Phạn thanh sơ học ngộ lương trần
Tòng kim diễm sắc quy không hậu
Tương phố ưng vô giải bội nhân
Dương Tuân Bá
(ả đào đi tu)
(cho hàng xóm 4 bên tất cả nữ trang và tiền bạc)
(đã cắt bỏ tóc mây và chán ngàn tuổi xuân tàn)
(tạm e sợ ngọn nến khó còn trên đời trước cơn gió)
(nên muốn trở thành hoa sen không nhiễm [bùn])
(muốn dịch kinh viết trên lá bối, lại chỉ mê chữ đẹp)
(lời Phật dạy mới học, lại lầm với lớp bụi trên rường nhà)
(từ nay, khi sắc tuyệt đẹp đã quy y cửa không [Phật] )
(bến sông Tương vắng đi một người đã cởi bỏ ngọc đeo)
Kỹ Nữ Đi Tu
Này đây của cải tặng người
Trả luôn mớ tóc…quên đời thế nhân
Đâu ai sống mãi trần gian
Tìm về kinh kệ
Tâm sen trong bùn
Lá bối in đậm kinh luân
Mù mờ lời Phật chưa phân tỏ tường
Qua rồi son sắc, phấn hương
Từ nay nơi bến sông Tương vắng người
SongNguyễn HànTú
寄 夫
夫 戍 邊 關 妾 在 吳
西 風 吹 妾 妾 憂 夫
一 行 書 信 千 行 淚
寒 到 君 邊 衣 到 無
陳 玉 蘭
Ký Phu
Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
Tây phong xuy thiếp thiếp ưu phu
Nhất hàng thư tín thiên hàng lệ
Hàn đáo quân biên y đáo vô
Trần Ngọc Lan
(viết thư cho chồng)
(chồng là lính đóng ngoài biên ải, thiếp ở đất Ngô)
(gió tây thổi vào thiếp, thiếp lo ngại cho chồng)
(cứ viết 1 dòng thư thì lại nhỏ 1 ngàn dòng nước mắt)
(khí lạnh đã đến biên thùy rồi, áo lạnh tới chưa? )
Nỗi Lòng Cô Phụ
Đất Ngô đơn chiếc cô phòng
Gió tây lạnh lẽo thương chồng biên cương
Trang thư nhòe nhoẹt lệ vương
Áo đông đã gởi sợ đường còn xa
SongNguyễn HànTú
寄 遠
美 人 在 時 花 滿 堂
美 人 去 後 空 餘 床
床 中 繡 被 卷 不 寢
至 今 三 載 猶 聞 香
香 亦 竟 不 滅
人 亦 竟 不 來
相 思 黃 葉 落
白 露 點 青 苔
李 白
Ký Viễn
Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường
Mỹ nhân khứ hậu không dư sàng
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
Chí kim tam tải do văn hương
Hương diệc cánh bất diệt
Nhân diệc cánh bất lai
Tương tư hoàng diệp lạc
Bạch lộ điểm thanh đài
Lý Bạch
(gửi nơi xa)
(khi người đẹp còn ở, hoa đầy nhà)
(khi người đẹp đi rồi, chỉ còn cái giường không)
(trong giường tấm chăn thêu được cuốn lại không ai nằm)
(đến nay đã 3 năm còn nghe mùi thơm)
(hương thơm rốt cuộc không phai)
(người rốt cuộc không trở lại)
(nhớ nhau lá vàng rơi)
(móc trắng rỏ trên rêu xanh)
Gởi Nơi Xa
Khi nàng còn ở
Trong bước vào ra
Hoa thơm trải khắp quanh nhà
Giờ nàng khuất bóng…mình ta với giường
Chiếc chăn thêu thoảng mùi hương
Ba năm cuộn lại còn vương phấn nồng
Hương xưa vẫn thoảng bềnh bồng
Trời ơi người cũ sao không thấy về
Nhớ ai ngày tháng lê thê
Lá vàng rụng hết
Sương mờ rêu xanh
SongNguyễn HànTú
洛 堤 曉 行
脈 脈 廣 川 流
驅 馬 歷 長 洲
鵲 飛 山 月 曙
蟬 噪 野 風 秋
上 官 儀
Lạc Đê Hiểu Hành
Mạch mạch quảng xuyên lưu
Khu mã lịch trường châu
Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo dã phong thu
Thượng Quan Nghi
(buổi sáng đi trên đê sông Lạc)
(sông rộng chảy cuồn cuộn)
(ruổi ngựa vượt bãi dài)
(chim thước bay trong núi dưới ánh trăng tàn buổi sáng)
(ve sầu kêu trong gió thu ngoài đồng có)
Trên Sông Lạc
Sông cuồn cuộn chảy về xuôi
Ngựa phi nước sải bãi dài vụt qua
Trăng tàn chim lượn núi xa
Ve kêu trong gió nhạt nhòa tiếng thu
SongNguyễn HànTú
洛 陽 道
大 道 直 如 髮
春 日 佳 氣 多
五 陵 貴 公 子
雙 雙 嗚 玉 瑕
儲 光 羲
Lạc Dương Đạo
Đại đạo trực như phát
Xuân nhật giai khí đa
Ngũ Lăng quý công tử
Song song minh ngọc hà
Trừ Quang Hi
(đường xá ở Lạc Dương)
(đường lớn thẳng như sợi tóc)
(ngày xuân có nhiều vẻ đẹp)
(công tử các nhà quyền quý ở Ngũ Lăng)
( [đi ngựa] sóng đôi ngọc reo lách cách)
Đường Nơi Lạc Dương
Bài 1
Như sợi tóc mặt đường
Tiết xuân quá dễ thương
Nhiều Ngũ Lăng công tử
Ngựa rong vang tiếng chuông
Bài 2
Đường lớn thẳng băng tựa tóc dài
Tiết xuân đẹp quá, nắng xuân tươi
Ngũ Lăng nườm nượp bao công tử
Chuông ngựa trên đường dạo cảnh chơi
SongNguyễn HànTú
落 日
落 日 在 簾 鉤
溪 邊 春 事 幽
芳 菲 緣 岸 圃
樵 爨 倚 灘 舟
卓 雀 爭 枝 墜
飛 蟲 滿 院 遊
濁 醪 誰 造 汝
一 酌 散 千 憂
杜 甫
Lạc Nhật
Lạc nhật tại liêm câu
Khê biên xuân sự u
Phương phi duyên ngạn phố
Tiều thoán ỷ than chu
Trác tước tranh chi trụy
Phi trùng mãn viện du
Trọc giao thùy tạo nhữ
Nhất chước tán thiên ưu
Đỗ Phủ
(mặt trời lặn)
(mặt trời lặn đến ngang rèm)
(cảnh xuân ven suối vắng lặng)
(cỏ thơm vươn lên trong vườn gần dòng)
(bác tiều phu nhóm lửa trên thuyền đậu gần thác nước)
(chim sẻ tham ăn giành nhau rơi khỏi cành cây)
(côn trùng bay lung tung khắp nhà)
(rượu đục ơi, ai tạo ra mi)
(mà uống 1 chầu tan được ngàn mối lo? )
Ngày tàn
Ngang rèm bóng đỏ ác tà
Suối xuân lặng lẽ, cỏ hoa im lìm
Gần dòng đám cỏ vươn lên
Bác tiều nhóm lửa trên thuyền khói bay
Tranh dành sẻ rớt khỏi cây
Đám côn trùng hợp từng bầy lượn quanh
Ai làm ra rượu tài tình
Ngà say nằm khểnh quên nhanh chuyện đời
SongNguyễn HànTú
臨 江 送 夏 瞻
悲 君 老 別 淚 沾 巾
七 十 無 家 萬 里 身
愁 見 舟 行 風 又 起
白 頭 浪 裡 白 頭 人
白 居 易
Lâm Giang Tống Hạ Chiêm
Bi quân lão biệt lệ triêm cân
Thất thập vô gia vạn lý nhân
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi
Bạc đầu lãng lý bạch đầu nhân
Bạch Cư Dị
(tới bờ sông đưa tiễn Hạ Chiêm)
(thương cảm lúc chia tay bạn già, nước mắt đẫm khăn)
(người 70 tuổi không nhà đi xa vạn dặm)
(lòng buồn khi thuyền dời bến cũng là lúc gió nổi lên)
(trên ngọn sóng bạc đầu,có mái tóc bạc của người)
Ra Sông Tiễn Hạ Chiêm
Lệ đẫm ướt…tiễn già về xa thẳm
Ngoài bảy mươi vẫn một bóng không nhà
Gió nổi lên, vọng theo bóng thuyền xa
Mái đầu bạc giữa sóng vờn trắng xóa
SongNguyễn HànTú
勞 勞 亭
天 下 傷 心 處
勞 勞 送 客 亭
春 風 知 別 苦
不 遣 柳 條 青
李 白
Lao Lao Đình
Thiên hạ thương tâm xứ
Lao Lao tống khách đình
Xuân phong tri biệt khổ
Bất khiến liễu điều thanh
Lý Bạch
(đình Lao Lao)
(nơi đau lòng dưới gầm trời)
(là đình tiễn đưa khách Lao Lao)
(gió xuân biết nỗi khổ của ly biệt)
(nên đã không làm cho nhánh liễu xanh)
Đình Lao Lao
Nơi cõi thế
Chốn tả tơi lòng dạ
Phải chăng là… đình tiễn khách Lao Lao
Gió xuân hẳn thắm men tình ly biệt
Chẳng thiết tha…giục liễu thắm xanh màu
SongNguyễn HànTú
烈 女 操
梧 桐 相 待 老
鴛 鴦 會 雙 死
貞 婦 貴 殉 夫
捨 生 亦 如 此
波 瀾 誓 不 起
妾 心 井 中 水
孟 郊
Liệt Nữ Tháo
Ngô đồng tương đãi lão
Uyên ương hội song tử
Trinh phụ quý tuẫn phu
Xả sinh diệc như thử
Ba lan thệ bất khởi
Thiếp tâm tĩnh trung thủy
Mạnh Giao
(bài ca liệt nữ)
(loài cây ngô đồng chờ nhau cùng già)
(chim uyên ương biết cùng nhau chết)
(vợ trung trinh quý ở chỗ chết vì chồng)
(bỏ cuộc sống cũng như vậy)
(thề lòng [thiếp] không nổi sóng)
(lòng thiếp như nước trong giếng)
Bài Ca Liệt Nữ
Ví như loài ngô đồng
Cùng chung ngày lão hóa
Ví như loài uyên ương
Biết đồng sanh đồng tử
Đời biết bao trinh phụ
Đã thủ tiết thờ chồng
Ta ghìm chặt sóng lòng
Đáy giếng sâu tĩnh mịch
SongNguyễn HànTú
鹿 寨
空 山 不 見 人
但 聞 人 語 響
返 影 入 深 林
復 照 青 苔 上
王 維
Lộc Trại
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản ảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
Vương Duy
(trại hươu)
(núi vắng vẻ không thấy người)
( nhưng nghe có tiếng người vọng lại)
(ánh núi phản chiếu vào rừng sâu)
(lại còn rọi trên đám rêu xanh)
Trại Hươu
Núi xanh vắng chả bóng người
Nhưng nghe tiếng vọng nói cười đâu đây
Ánh rừng sâu nắng ngập đầy
Soi lên khắp lối phủ dầy rêu xanh
SongNguyễn HànTú
利 洲 南 渡
澹 然 空 水 對 斜 暉
曲 島 蒼 茫 接 翠 微
波 上 馬 嘶 看 棹 去
柳 邊 人 歇 待 船 歸
數 叢 沙 草 群 鷗 散
萬 頃 江 田 一 鷺 飛
誰 解 乘 舟 尋 范 蠡
五 湖 煙 水 共 忘 機
溫 庭 筠
Lợi Châu Nam Độ
Đạm nhiên không thủy đối tà huy
Khúc đảo thương mang tiếp thúy vi
Ba thượng mã tê khan trạo khứ
Liễu biên nhân yết đãi thuyền quy
Sổ tùng sa thảo quần âu tán
Vạn khoảnh giang điền nhất lộ phi
Thùy giải thừa chu tầm Phạm Lãi
Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ki
Ôn Đình Quân
(đi thuyền về phía nam Lợi Châu)
(mặt nước vô tình, vắng lặng dưới ánh nắng chiều)
(hòn đảo xanh quanh co nối tiếp với hơi núi biếc)
(nhìn mái chèo lướt sóng, có tiếng ngựa hí [trên bờ] )
(bên gốc liễu người nghỉ ngơi đợi đò ghé vào)
(đám chim âu tản mác trong vài đám cỏ trên bãi cát)
(ruộng ven sông cả vạn thửa, một con cò đang bay)
(ai hiểu được cái thú cưỡi thuyền nhớ tích Phạm Lãi)
(để cùng quên chuyện đời trong khói nước Ngũ Hồ)
Qua Miền Nam Lợi Châu
Sông trong vắt dưới bóng chiều bảng lảng
Đảo quanh co, cỏ biếc, núi xanh lơ
Ngựa hí vang, thuyền giỡn sóng dật dờ
Bên gốc liễu khách đợi đò đứng nghỉ
Quanh đám cỏ lũ chim âu dạn dĩ
Đồng mênh mông cánh cò trắng ngang trời
Theo tích xưa như Phạm Lãi rong chơi
Tìm quên lãng giữa Ngũ Hồ mây nước
SongNguyễn HànTú
旅 夜 書 懷
細 草 微 風 岸
危 檣 獨 夜 舟
星 垂 平 野 闊
月 湧 大 江 流
名 豈 文 章 著
官 應 老 病 休
飄 飄 何 所 似
天 地 一 沙 鷗
杜 甫
Lữ Dạ Thư Hoài
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu
Tinh thùy bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất sa âu
Đỗ Phủ
(đêm xa nhà viết nỗi lòng)
(trên bờ sông có cỏ lún phún và gió nhẹ)
(con thuyền giương cao cột buồm trong đêm cô quạnh)
(sao đã hạ thấp, đồng cỏ bao la)
(trăng còn trên cao, sông lớn tuôn chảy )
(há nhờ văn chương mà nổi tiếng? )
(việc quan nếu tuổi già và có bệnh thì nên về hưu)
(ta nay lâng lâng như đang ở đâu?)
(như một con chim âu đang bị rớt trong trời đất)
Nỗi Lòng Đêm Đất Khách
Gió vờn nhẹ,
cỏ non xanh lún phún
Một cột buồm in bóng giữa đêm khuya
Đồng mênh mông nằm giữa giải thiên hà
Trăng vỡ nát trên dòng sông cuốn chảy
Danh đâu hẳn nhờ văn chương lừng lẫy
Chắc từ quan . . . !
về nghỉ dưỡng bệnh già
Nghe trong lòng len lén chút xót xa
Bóng âu nhỏ giữa cảnh trời lồng lộng
SongNguyễn HànTú
淥 水 曲
淥 水 明 秋 月
南 湖 採 白 蘋
荷 花 嬌 欲 語
愁 殺 蕩 舟 人
李 白
Lục Thủy Khúc
Lục thủy minh thu nguyệt
Nam hồ thái bạch tần
Hà hoa kiều dục ngữ
Sầu sát đãng chu nhân
Lý Bạch
(bài ca nước trong)
(trăng thu chiếu sáng trên làn nước trong)
(hái rau tần trắng ở phía nam hồ)
(hoa sen xinh đẹp như muốn nói)
(làm người chèo thuyền cảm xúc muốn chết luôn)
Trăng Nước Hồ Thu
Trăng thu soi nước trong veo
Ngắt rau tần trắng , gác chèo bờ nam
Nụ sen chúm chím cười duyên
Khiến lòng khách chợt đảo đìên thẫn thờ
SongNguyễn HànTú
隴 西 行
誓 掃 匈 奴 不 顧 身
五 千 貂 錦 葬 胡 塵
可 憐 無 定 河 邊 骨
猶 是 深 閨 夢 裡 人
陳 陶
Lũng Tây Hành
Thệ tảo Hung nô bất cố thân
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị thâm khuê mộng lý nhân
Trần Đào
(bài hành Lũng Tây)
(thề quên mình quét sạch bọn Hung nô)
(năm ngàn quân mặc gấm điêu vùi thây trong đất Hồ)
(thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định)
(vẫn còn là người trong mộng của các phòng the xa xôi)
Bài Ca Lũng Tây
Xả thân thề giết Hung Nô
Năm ngàn dũng sĩ đất Hồ mạng vong
Bên bờ Vô Định thây chồng
Thương bao kẻ mộng xuân không được tròn
SongNguyễn HànTú
涼 州 詞
葡 萄 美 酒 夜 光 杯
欲 飲 琵 琶 馬 上 催
醉 臥 沙 場 君 莫 笑
古 來 征 戰 幾 人 回
王 翰
Lương Châu Từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Vương Hàn
(bài cho Lương Châu)
(rượu nho ngon, chén bằng ngọc dạ quang)
(muốn uống nhưng tiếng đàn tì bà đã giục giã lên ngựa)
(xin bạn đừng cười những kẻ say gục trên chiến trường)
(xưa nay những người đi chinh chiến mấy ai đã trở về)
Ly Rượu Lên Đường
Bài 1
Dạ quang chén đã rót đầy
Lệnh đàn đang giục phải ngay lên đường
Cười à … ngất ngưởng sa trường
Giữa nơi trận địa ai mong ngày về
Bài 2
Rượu nồng rót chén dạ quang
Uống đi đàn đã vang vang giục rồi
Ngại gì lưng ngựa say vùi
Chiến tranh máu lửa mấy ai trở về
SongNguyễn HànTú
留 別 王 維
寂 寂 竟 何 待
朝 朝 空 自 歸
欲 尋 方 草 去
惜 與 故 人 違
當 路 誰 相 假
知 音 世 所 稀
只 應 守 寂 寞
還 掩 故 園 扉
孟 浩 然
Lưu Biệt Vương Duy
Tịch tịch cánh hà đãi
Triêu triêu không tự quy
Dục tầm phương thảo khứ
Tích dữ cố nhân vi
Đương lộ thùy tương giả
Tri âm thế sở hi
Chỉ ưng thủ tịch mịch
Hoàn yểm cố viên phi
Mạnh Hạo Nhiên
(viết để lại từ biệt Vưong Duy)
(cứ yên lặng thế này còn chờ gì nữa? )
(sáng nào cũng trở về tay không)
(muốn tìm cỏ thơm mới đi)
(tiếc làm phiền lòng bạn cũ)
(bọn đang làm quan mấy ai khoan dung ai)
(bạn tri âm trên đời hiếm thấy)
(chỉ muốn sống đời lặng lẽ)
(nên trở về vườn cũ đóng chặt cửa cây)
Lưu Thơ Từ Biệt Vương Duy
Đời hiu hắt, luống mong gì
Sáng đi tay trắng, chiều về tay không
Cũng mong chút cỏ hương nồng
Sợ làm phiền bạn nên lòng chẳng yên
Cửa quan ai muốn lụy phiền
Tri âm nào phải dễ tìm thuở nay
Thôi đành lặng lẽ từ đây
Vườn xưa đối bóng, cửa cây then cài
SongNguyễn HànTú
自 勸
憶 昔 饑 貧 應 舉 年
脫 衣 典 酒 曲 江 邊
十 千 一 斗 猶 奢 飲
何 況 官 供 不 值 錢
白 居 易
Tự khuyến
Ức tích cơ bần ứng cử niên
Thoát y điển tửu Khúc Giang biên
Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm
Hà huống quan cung bất trị tiền
Bạch Cư Dị
(tự nhủ)
( nhớ xưa vào năm đi thi còn thiếu ăn và nghèo)
(đã phải cởi áo cầm cố để có rượu uống bên sông Khúc)
(một đấu rượu mười ngàn đồng còn dám hoang phí uống)
(huống nay [rượu là] cấp bổng của quan chức đâu phải trả bằng tiền)
Tự Nhủ
Nhớ lúc gặp bần cùng năm ứng thí
Cởi áo ra đổi rượu chốn Khúc giang
Một đấu thôi đã hết béng chục ngàn
Huống chi lộc nhà quan nay bừa phứa
SongNguyễn Hàn Tú
思 婦 眉
春 風 搖 蕩 自 東 來
折 盡 櫻 桃 綻 盡 梅
唯 餘 思 婦 愁 眉 結
無 限 春 風 吹 不 開
白 居 易
Tư Phụ Mi
Xuân phong dao đãng tự đông lai
Chiết tận anh đào, trán tận mai
Duy dư tư phụ sầu mi kết
Vô hạn xuân phong xuy bất khai
Bạch Cư Dị
(làn mi của người đàn bà trẻ đang nhớ nhung)
(gió xuân từ phía đông ào ào thổi tới)
(bẻ gãy hết anh đào, làm mai nở tung)
(duy có làn mi khép lại của thiếu phụ đang buồn vì nhớ nhung)
(thì gió xuân thổi cách nào cũng không làm [nàng] mở ra)
Mi khép nhớ nhung
Gió xuân cuồng nộ thét gào
Giục mai nở sớm, khiến đào tả tơi
Vành mi khép kín mãi thôi
Gió xuân chẳng thổi được vơi đỉnh sầu
SongNguyễn HànTú
自 君 之 出 矣
自 君 之 出 矣
不 復 理 殘 機
思 君 如 月 滿
夜 夜 減 光 輝
張 九 齡
Tự quân chi xuất hĩ
Tự quân chi xuất hĩ
Bất phục lý tàn ky
Tư quân như nguyệt mãn
Dạ dạ giảm quang huy
Trương Cửu Linh
(từ ngày chàng ra đi)
(từ ngày chàng ra đi)
( chẳng thiết gì sửa lại cái khung dệt cửi hư nữa)
(lòng em nhớ chàng như [hình ảnh] vầng trăng tròn đầy)
(đêm đêm nó bớt dần chiếu sáng)
Từ Lúc Vắng Chàng
Từ chàng xa cách phương trời
Chả màng khung cửi, biếng ngồi quay tơ
Nhìn bóng nguyệt …nhớ vô bờ
Ánh vàng huyền diệu … hoen mờ từng đêm
SongNguyễn HànTú
思 歸
長 江 悲 以 滯
萬 里 念 將 歸
況 復 高 風 晚
山 山 黃 葉 飛
王 勃
Tư quy
Trường giang bi dĩ trệ
Vạn lý niệm tương quy
Huống phục cao phong vãn
Sơn sơn hoàng diệp phi
Vương Bột
(nghĩ chuyện trở về)
(nỗi buồn trên sông Trường Giang đã đọng đầy)
(nơi xa quê vạn dặm này phải tính chuyện trở về thôi)
(huống hồ chiều nay gió lại thổi mạnh)
(núi nào cũng có lá vàng bay ào ào [gợi nhớ quê])
Nghĩ chuyện trở về
Nỗi sầu phủ kín Trường Giang
Xa xôi ngàn dặm mênh mang nhớ nhà
Gió gieo buồn ngập hồn ta
Lá vàng khắp núi buồn da diết lòng
SongNguyễn HànTú
思 長 安 故 園
強 欲 登 高 飲
無 人 送 酒 來
遙 憐 故 園 菊
應 傍 戰 埸 開
岑 參
Tư Trường An Cố Viên
Cưỡng dục đăng cao ẩm
Vô nhân tống tửu lai
Dao lân cố viên cúc
Ưng bạng chiến trường khai
Sầm Tham
Ghi chú: Trường An là kinh đô nhà Đường. Năm 756
bị quân An Lộc Sơn tạm chiếm và triều đình đã lấy lại vào năm sau.
(nhớ vườn cũ ở Trường An)
(gượng sức leo lên núi cao uống rượu [tiết Trùng dương])
([nhưng] không có ai tới bày tiệc rượu)
(từ nơi xa xôi thương cho khóm hoa cúc ở vườn cũ)
(có lẽ đang nở ngay bên chiến trường)
Nhớ vườn cũ ở Trường An
Gượng leo lên đỉnh non cao
Tiếc rằng chẳng tiệc rượu theo giải sầu
Nhớ ba khóm cúc vườn sau
Chắc là đang nở giữa chiều đao binh
SongNguyễn HànTú
宿 建 德 江
移 舟 泊 煙 渚
日 暮 客 愁 新
野 曠 天 低 樹
江 清 月 近 人
孟 浩 然
Túc Kiến Đức Giang
Di chu bạc yên chử
Nhật mộ khách sầu tân
Dã khoáng thiên đê thụ
Giang thanh nguyệt cận nhân
Mạnh Hạo Nhiên
(nghỉ qua đêm bên sông Kiến Đức)
(dời thuyền đến đậu nơi bãi sông phủ đầy sương khói)
(vẻ chiều tà làm lữ khách chợt cảm thấy buồn)
(đồng cỏ bao la làm trời như hạ thấp xuống ngọn cây)
(nước sông trong [bóng] trăng như gần với [bóng] người)
Nghỉ đêm bên Sông Kiến Đức
Rời thuyền đậu nơi bến sông sương phủ
Chiều dần buông…sầu nhen nhúm dâng khơi
Đồng ruộng bao la, trời thấp dần rồi
Nước trong vắt, trăng kề bên lơi lả
SongNguyễn HànTú
宿 龍 興 寺
香 剎 夜 忘 歸
松 清 古 殿 扉
燈 明 方 丈 室
珠 繫 比 丘 衣
白 日 傅 心 淨
青 蓮 喻 法 微
天 花 落 不 盡
處 處 鳥 銜 飛
綦 毋 潛
Túc Long Hưng Tự
Hương sát dạ vong quy
Tùng thanh cổ điện phi
Đăng minh phương trượng thất
Châu hệ tỳ kheo y
Bạch nhật truyền tâm tĩnh
Thanh liên dụ pháp vi
Thiên hoa lạc bất tận
Xứ xứ điểu hàm phi
Cơ Vô Tiềm
(qua đêm ở chùa Hưng Long)
(chùa thơm [nhang và hoa] quá nên đêm tới quên cả về)
(ngoài cổng chùa cổ có hàng thông mát mẻ)
(đèn trong phòng sư trụ trì thắp sáng)
(các sư đeo tràng hạt bên ngoài y phục)
(ánh đạo như mặt trời truyền cho người người tâm thanh tịnh)
(bông sen xanh tượng trưng cho pháp Phật vi diệu)
(hoa trời rơi không ngừng)
(được chim từ mọi nơi bay tới ngậm bay đi)
Qua Đêm Ở Chùa Hưng Long
Viếng chùa tối quên về
Tiếng thông reo đê mê
Đèn mờ phòng sư cụ
Tràng trên áo lê thê
……
Tâm yên ngời ánh đạo
Ý nhiệm mầu trong sen
Hoa trời miên man rớt
Chim mang trải khắp miền
SongNguyễn HànTú
宿 府
清 秋 幕 府 井 梧 寒
獨 宿 江 城 蠟 炬 殘
永 夜 角 聲 悲 自 語
中 天 月 色 好 誰 看
風 麈 荏 苒 音 書 絕
關 塞 蕭 條 行 路 難
已 忍 仱 俜 十 年 事
強 移 栖 息 一 枝 安
杜 甫
Túc Phủ
Thanh thu mạc phủ tỉnh ngô hàn
Độc túc giang thành lạp cự tàn
Vĩnh dạ giác thanh bi tự ngữ
Trung thiên nguyệt sắc hảo thùy khan
Phong trần nhiệm nhiễm âm thư tuyệt
Quan tái tiêu điều hành lộ nan
Dĩ nhẫn linh phing thập niên sự
Cưỡng di thê tức nhất chi an
Đỗ Phủ
(đêm ngủ tại Hành dinh)
(trời thu trong, cây ngô đồng bên giếng Hành dinh lạnh lẽo)
(một mình ngủ lại thành bên sông, đuốc nến đã tàn)
(suốt đêm tiếng tù và nổi lên buồn thảm)
(trên trời trăng khá đẹp mà có ai thèm ngắm)
(đời gió bụi cứ lần lữa mãi, [gia đình] bặt tin tức)
([đóng ở] biên ải xác xơ này, đường đi lại khó khăn)
(đã mười năm chịu cảnh phiêu bạt rồi)
(gượng tới nương náu trên cành này mong yên thân)
Đêm Ngủ Trong Phủ
Trời trong vắt
Cây ngô đồng nơi mạc phủ
Đứng im lìm giữa giá lạnh trời thu
Nằm cô đơn trước ngọn nến lù mù
Thành đêm vắng tiếng tù-và buồn bã
Thật uổng phí…chao ôi trăng đẹp quá
Bước phong trần lâu chẳng được tin nhà
Ải quan buồn, đường đi quá cam go
Đời vừa trải mười năm trời lận đận
Gượng nương náu nơi chốn này an phận
SongNguyễn HànTú
即 事
扺 鵲 山 前 寄 掩 扉
便 堪 終 老 脫 朝 衣
曉 窺 青 鏡 千 峰 入
暮 倚 長 松 獨 鶴 歸
雲 裏 引 來 泉 脈 細
雨 中 移 得 藥 苗 肥
何 須 一 箸 鱸 魚 膾
始 掛 孤 帆 問 釣 磯
吳 融
Tức Sự
Để Thước sơn tiền ký yểm phi
Tiện kham chung lão thoát triều y
Hiểu khuy thanh kính thiên phong nhập
Mộ ỷ trường tùng độc hạc quy
Vân lý dẫn lai tuyền mạch tế
Vũ trung di đắc dược miêu phì
Hà tu nhất trợ lư ngư khoái
Thủy quải cô phàm vấn điều ki
Ngô Dung
(kể việc trước mắt)
(gửi thân vào ngôi nhà kín cửa trước núi Để Thước)
(để sống hết tuổi già [sau khi] rũ bỏ áo chầu [vua])
(buổi sáng soi gưong xanh thấy có cả ngàn núi [phía sau])
(chiều đứng tựa cây thông cao [chờ] con hạc cô đơn bay về)
(qua kẽ mây [trên núi] thấy nguồn nước nhỏ đổ vào suối)
(trong mưa cây thuốc trổ ra mầm tươi tốt)
(còn gì bằng một gắp gỏi cá lư !)
([thế là] bắt đầu treo tầm buồm lẻ loi lên hỏi thăm tới ghềnh câu cá)
Kể Việc Trước Mắt
Về khép cổng gởi thân nơi Để Thước
Rũ áo chầu, sống vui hưởng tuổi già
Sáng đối gương xanh nhìn ngàn núi xa mờ
Chiều bên thông đứng vời chim côi về tổ
Qua kẽ mây quanh co dòng suối nhỏ
Thấm mưa nhiều mầm thuốc mọc tốt tươi
Mùa cá lư, nghĩ tới gỏi … thèm rồi
Kéo buồm nhỏ hỏi thăm ghềnh câu cá
SongNguyễn HànTú