** Tập 3 Đường Thi – SNHT
Nguyễn Tâm HànNguyenTamHan # Friday, November 14, 2008 10:42:02 PM
九子坡聞鷓鴣
落日蒼茫秋草明
鷓鴣啼處遠人行
正穿詰曲岆嶇路
更聽鉤輈格磔聲
曾泊桂江深岸雨
亦於梅嶺阻歸程
此時為爾腸千斷
乞放今宵白髮生
李群玉
Cửu Tử Pha Văn Chá Cô
*
Lạc nhật thương mang thu thảo minh
Chá cô đề xứ viễn nhân hành
Chính xuyên cật khúc kỳ khu lộ
Cánh thính câu châu cách trách thanh
Tằng bạc Quế giang thâm ngạn vũ
Diệc ư Mai lĩnh trở quy trình
Thử thì vi nhĩ trưòng thiên đoạn
Khất phóng kim tiêu bạch phát sinh
*
Lý Quân Ngọc
Dich Nghĩa:
(qua dốc núi Cửu Tử nghe tìếng chim chá cô)
(trời chiều bao la, cỏ thu tươi thắm)
(khách viễn du nghe tiếng chim chá cô kêu)
(đúng vào lúc xe đang ở khúc quanh co gập ghềnh)
(tiếng càng xe rung lên lách cách)
(đã từng đậu thuyền bên bờ sông Quế lúc mưa tầm tã)
(lại khi bị trở ngại ở sườn núi Mai trên đường về)
(những lúc như thế, nghe mi kêu, lòng ta như đứt ngàn khúc)
(đêm nay hãy tha cho ta đừng để đầu ta thêm tóc bạc)
Ghi chú: Chim chá cô là thứ chim hay bay về phương nam, như bạn đồng hành với
các quan bị lưu đày; do đó coi như thứ chim mang đièm sui sẻo cho khách viễn hành.
*******
Tiếng Chim Chá Cô Nơi Dốc Cửu Tử
***
Trời man mác, cỏ thu vàng óng ánh
Giữa đường chiều, chá-cô hót não nùng
Cảnh hoang vu, đường khúc khuỷu gập ghềnh
Tiếng lách cách nơi càng xe uể oải
Đã sông Quế đậu thuyền trời mưa mãi
Nào xong đâu lại trở ngại núi Mai
Thôi chim ơi,
Xin vị chút tình người
Đừng kêu nữa…cho đêm…vơi sầu não
*
SongNguyễn HànTú
巴 山 夜 雨 漲 秋 池
何 當 共 剪 西 窗 燭
卻 說 巴 山 夜 雨 時李 商 隱
Dạ Vũ Ký Bắc
*
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì
Hà đang cộng tiễn tây song chúc
Khước thuyết Ba sơn dạ vũ thì
*
Lý Thương Ẩn
*
Dich nghia:
(lviết lúc đêm mưa gửi về bắc)
(bạn hỏi ngày nào về, chưa thể hẹm được)
(mưa đêm ở núi Ba làm nước ao thu dâng cao)
(ngày nào cùng bên song cửa tây xén bấc nến)
(chuyện trò về lúc mưa đêm ở núi Ba ?)
*****
Làm Lúc Mưa Đêm Gửi Về Bắc
***
Bao giờ về,
chẳng biết đây
Vùng Ba mưa lớn ngập đầy ao thu
Khi nào xén bấc song khuya
Nhắc ngày nước đổ dầm dề núi Ba
***
SongNguyễn HànTú
夜泊牛渚懷古
牛渚西江夜
青天無片雲
登舟望秋月
空憶謝將軍
余亦能高詠
斯人不可聞
明朝掛帆去
楓葉落紛紉
李白
Dạ Bạc Ngưu Chữ Hoài Cổ
***
Ngưu Trữ Tây giang dạ
Thanh thiên vô phiến vân
Đăng chu vọng thu nguyệt
Không ức Tạ tướng quân
Dư diệc năng cao vịnh
Tư nhân bất khả văn
Minh triêu quải phàm khứ
Phong diệp lạc phân phân
Lý Bạch
Dich nghĩa:
(đêm đậu thuyền ở Ngưu Trữ nhớ tích xưa)
(đêm thuyền ghé Ngưu Trữ bên sông Tây giang)
(trời trong xanh không một gợn mây)
(tôi lên sàn thuyền ngắm trăng thu)
(chợt nhớ tích xưa của tướng quân họ Tạ)
(tôi cũng có thể cao giọng ngâm vịnh thơ)
(nhưng tướng quân đâu có nghe được)
(sáng mai tôi sẽ giương buồm ra đi)
(lá phong rụng thật nhiều)
***
Ghi chú: Tạ tướng quân tức Tạ Thượng, người đời Tấn (cách Lý Bạch 400 năm)
là quan trấn thủ Ngưu Trữ. Đêm thu nọ, họ Tạ cùng đoàn tùy tùng đi chơi thuyền
trên sông Tây giang, uống rượu ngắm trăng. Chợt nghe có tiếng người ngâm
vịnh thơ. Hỏi ra, được biết đó là thi sĩ Viên Hoàng, bèn mời lên thuyền, suốt đêm
trò truyện không ngủ, rồi kết bạn tâm giao…
*******
Đêm Đậu Thuyền Bến Ngưu Trữ Nhớ Tích Xưa
***
Bến Ngưu Trữ
Trên Tây Giang
Trời trong xanh cảnh mơ màng
Thả thuyền ngắm ánh trăng vàng lửng lơ
Nhớ tướng quân
Dạ thẫn thờ
Mở lời ngâm vịnh bỗng ngơ ngẩn lòng
Người đâu nghe được mà mong
Sớm mai dong duổi bềnh bồng thuyền trôi
Người đi…
Phong rụng tơi bời
***
SongNguyễn HànTú
夜 別韋 司 士
高 館 張 燈 酒 復 清
曉 鐘 殘 月 雁 歸 聲
只 言 啼 鳥 堪 求 侶
無 那 春 風 欲 送 行
黃 河 曲 裏 沙 為 岸
白 馬 津 邊 柳 向 城
莫 怨 他 鄉 暫 離 別
知 君到 處 有 逢 迎
高 適
Dạ Biệt Vi Tư Sĩ
***
Cao quán trương đăng tửu phục thanh
Hiễu chung tàn nguyệt nhạn quy thanh
Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ
Vô ná xuân phong dục tống hành
Hoàng Hà khúc lý sa vi ngạn
Bạch Mã tân biên liễu hướng thành
Mạc oán tha hương tạm ly biệt
Tri quân đáo xứ hữu phùng nhân
*
Cao Thích
Dich nghĩa
(đêm từ biệt quan tư sĩ họ Vi)
(nhà hàng đã trương đèn, rượu vẫn mềm môi)
(trăng đã tàn, có tiếng chuông sớm và nhạn bay về)
(chỉ nói là chim kêu có thể cầu bạn được)
(thì không nhẽ gió xuân đến mà lại tiễn người đi)
(sông Hoàng Hà ở khúc này có cát ở hai bờ)
(liễu ở bến Bạch Mã đây gió bay hướng về thành đô)
(đừng có buồn cho buổi tạm biệt đền xứ người)
(biết ông đến đấy là đã có người nghênh đón ông rồi)
*******
Tiễn Quan Tư Sĩ Họ Vi
***
Đèn đã thắp
Rượu lại nồng hương vị
Ánh trăng tàn…
Tiêng nhạn quyện chuông mai
Nghe tiếng chim, ý cầu bạn hợp rồi
Xuân gió đến … lại cùng người tống biệt
Ven Hoàng giang khúc này bờ phủ cát
Liễu cũng ngả theo gió hướng thành đô
Chả nên buồn nơi ông tới bây giờ
Bao người đã sẵn sàng chờ nghinh tiếp
***
SongNguyễn HànTú
夜 上 受 降 城 聞 笛
回 樂 峰 前 沙 似 雪
受 降 城 外 月 如 霜
不 知 何 處 吹 籚 管
一 夜 征 人 盡 望 鄉
李 益
Dạ Thướng Thụ Hàng Thành Văn Địch
***
Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương
Bất tri hà xứ xuy lô địch
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương
Lý Ích
Dich nghĩa:
(đêm lên thành Thụ Hàng nghe tiếng sáo)
(cát ở trước ngọn Hồi Nhạc trông như tuyết)
(ánh trăng ngoài thành Thụ Hàng như sương)
(không biết ai thổi sáo xậy từ đâu)
(làm cho lữ khách cả đêm nhớ nhà)
******
Tiếng Sáo Thành Thụ Hàng
***
Núi Hồi mặt trước
Cát trắng giăng giăng
Tưởng như giải tuyết giá băng
Thụ Thành mờ ảo ánh trăng diệu huyền
Đâu đây giữa cảnh trời đêm
Sáo ai giục khách du miền quê xưa
***
SongNguyễn HànTú
夜 送 趙 縱
趙 氏 連 城 璧
由 來 天 下 傅
送 君 還 舊 府
明 月 滿 前 川
楊 炯
Dạ Tống Triệu Túng
***
Triệu thị liên thành bích
Do lai thiên hạ truyền
Tống quân hoàn cựu phủ
Minh nguyệt mãn tiền xuyên
Dương Quýnh
Dich nghia:
(đêm đưa tiễn Triệu Túng)
(viên ngọc của họ Triệu đáng giá nhiều thành liền)
(người ta đồn đãi [từ thời Chiến Quốc] tới nay)
(tiễn ông trở về nhà cũ)
(phía trước dòng sông, trăng sáng vằng vặc)
***
Ghi chú: Từ thời Chiến Quốc (cách tác giả Dương Quýnh…1 ngàn năm) nước
Triệu có viên ngọc bích rất quý, vua nước Tần đề nghị đổi 15 thành liền nhau,
mà không được.
******
Đêm Tiễn Triệu Túng
***
Triệu gia có ngọc liên thành
Ai người không biết đến danh ngọc này
Tiễn người về phủ đêm nay
Ánh trăng vằng vặc giãi đầy bến sông
***
SongNguyễn HànTú
野 望
西 山 白 雪 三 城 戌
南 浦 清 江 萬 里 橋
海 內 風 塵 諸 弟 隔
天 涯 涕 淚 一 身 遙
唯 將 遲 暮 供 多 病
未 有 涓 埃 答 聖 朝
跨 馬 出 郊 徒 極 目
不 堪 人 事 日 蕭 條
杜甫
Dã vọng
*
Tây sơn bạch tuyết tam thành thú
Nam phố thanh giang vạn lý kiều
Hải nội phong trần chư đệ cách
Thiên nhai thế lệ nhất thân diêu
Duy tương trì mộ cung đa bệnh
Vị hữu quyên ai đáp thánh triều
Khóa mã xuất giao đồ cực mục
Bất kham nhân sự nhật tiêu điều
Đỗ Phủ
******
Dich nghia:
(ngắm cảnh đồng quê)
(núi phía tây tuyết trắng có 3 đồn lính)
(bến phía nam nước trong veo có cầu Vạn Lý)
(trong cơn gió bụi, các em đều xa cách)
(một mình ta xa nhà, ứa lệ nơi góc trời này)
(một mình ta xa nhà, ứa lệ nơi góc trời này)
(càng vè già càng thêm bệnh)
(chưa đền đáp được điều gì cho ơn vua)
(lên ngựa ra ngoại ô nhìn xa xăm)
(ngao ngán cho tình đời ngày một tiêu điều)
Ngắm Cảnh Đồng Ruộng
***
Tây Sơn tuyết phủ
Rải rác đồn lính thú im lìm
Kìa cầu Vạn trên vùng Nam Phố
Nước trong xanh ngắm cảnh dạ buồn thêm
——
Giữa đời gió bụi
Buồn nào hơn xa cách anh em
Góc trời một bóng
Đã bao đêm lệ đẫm ưu phiền
Tuổi ngày chồng chất
Thân rã rời đau ốm triềm miên
——–
Ơn vua chưa đáp
Lưng ngựa ngoài thành vơ vẩn trông vời
Dòng đời nghiệt ngã
Ngao ngán cho mình một kiếp nổi trôi !
***
SongNguyễn HànTú
野 望
東 高 薄 暮 望
徙 倚 欲 何 依
樹 樹 皆 秋 色
山 山 惟 落 暉
牧 童 驅 犢 返
獵 馬 帶 禽 歸
相 顧 無 相 識
長 歌 懷 采 薇
王績
Dã Vọng
*
Đông cao bạc mộ vọng
Tỷ ỷ dục hà y
Thụ thụ giai thu sắc
Sơn sơn duy lạc huy
Mục đồng khu độc phản
Lạp mã đới cầm quy
Tương cố vô tương thức
Trường ca hoài “thái vi”
*
Vương Tích
Dich nghĩa:
(ngắm cảnh đồng nội)
(lên dốc cao ở phía đông ngắm cảnh xế chiều)
(đi lang thang không mục đích)
(cây cối đều mang vẻ thu)
(núi non chìm trong hoàng hôn)
(trẻ mục đồng lùa trâu bò về chuồng)
(ngựa của bác thợ săn đeo đầy chim [chết] trở về)
(nhìn nhau nhưng không quen nhau)
(hát theo trí nhớ bài ca dài “món rau vi”)
*******
Ngắm Cảnh Đồng Quê
***
Dốc đông vãn cảnh chiều tàn
Lang thang muốn hưởng cảnh nhàn nghỉ ngơi
Hàng cây nhuộm vẻ thu rồi
Núi non bảng lảng chiều rơi nắng tà
Lưng trâu mục tử lại nhà
Thợ săn vó ngựa đường xa trở về
Chả ai quen nhỉ…lạ ghê!
Nghêu ngao hát khúc “rau vi” đỡ buồn
***
SongNguyễn HànTú
夜 雨
早 蛩 啼 復 歇
殘 燈 滅 又 明
隔 窗 知 夜 雨
芭 蕉 先 有 聲
白 居 易
Dạ Vũ
*
Tảo cùng đề phục yết
Tàn đăng diệt hựu minh
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh
*
Bạch Cư Dị
Dich nghĩa
(mưa đêm)
(dế sáng sớm kêu rồi ngưng)
(ngọn đèn đã cạn dầu lúc mờ lúc tỏ)
(ngồi sau cửa sổ biết đêm qua có mưa)
(vì trước tất cả là tiếng lộp độp trên lá chuối
*****
Mưa Đêm
*
Dế kêu rền rĩ rồi ngưng
Ngọn đèn tàn lụi bỗng bừng sáng lên
Cách song biết có mưa đêm
Giọt rơi tầu chuối còn rền bên tai
*
SongNguyễn HànTú
Tiếng dế vang rồi lặng
Ánh đèn tỏ lại mờ
Biết đêm qua mưa đổ
Tiếng tầu chuối nước khua
*
NguyễnTâmHàn
夜 宴 左 氏 生
風 林 纖 月 落
夜 露 淨 琴 張
暗 水 流 花 徑
春 星 帶 草 堂
檢 書 燒 燭 短
看 劍 引 盃 長
詩 罷 聞 吳 詠
扁 舟 意 不 忘
杜 甫
Dạ Yến Tả Thị Sinh
*
Phong lâm tiềm nguyệt lạc
Dạ lộ tịnh cầm trương
Ám thủy lưu hoa kính
Xuân tinh đới thảo đường
Kiểm thư thiêu chúc đoản
Khan kiếm dẫn bôi trường
Thi bãi văn Ngô vịnh
Thiên chu ý bất vong
*
Đỗ Phủ
Dich Nghia
(dự tiệc đêm ở nhà thư sinh họ Tả)
(gió thổi trong rừng , trăng mờ lặn dần)
(khúc đàn réo rắt trong sưong đêm)
(dòng nước lặng lẽ chảy bên đường hoa)
(vì sao mùa xuân treo trên nhà cỏ)
(xem sách lâu làm ngọn nến ngắn dần)
(càng ngắm kiếm càng muốn uống hoài)
(thơ vừa xong thì nghe ai ngâm vịnh nước Sở)
(trong ý nghĩ không quên chiếc thuyền nhỏ)
*****
Đêm dự tiệc nhà họ Tả
*
Rừng gió thoảng, trăng dần mờ lặn
Tiếng đàn đêm cô đọng trong sương
Bên luống hoa nước âm thầm chảy
Chếch mái nhà một thoáng sao vương
*
Ngọn nến ngắn đi qua trang sách
Nhìn gươm . . . hồ rượu cứ vơi dần
Điệu Ngô văng vẳng thơ vừa kết
Vẫn bóng con thuyền hiện trong tâm
*
SongNguyễn HànTú
自中都已達
江陵今茲暮
春月末合行
到夔州悲喜
相兼團圓可
待賦詩即事
情現乎詞爾到江陵府
何時到峽州
亂離生有別
聚集病應瘳
颯颯開啼眼
朝朝上水樓
老身須寄托
白骨更無憂杜甫
Đắc Xá Đệ Quan Thư, tự Trung Đô
Dĩ Đạt Giang Lăng, Kim Tư Mộ Xuân
Nguyệt Mạt Hợp Hành Đáo Quỳ Châu.
Bi Hỉ Tương Kiêm, Đoàn Viên Khả Đãi,
Phú Thi Tức Sự, Tình Hiện Hồ Từ.
Nhĩ đáo Giang Lăng phủ
Hà thời đáo Giáp châu
Loạn ly sinh hữu biệt
Tụ tập bệnh ưng sưu
Táp táp khai đề nhãn
Triêu triêu thướng thủy lâu
Lão thân tu ký thác
Bạch cốt cánh vô ưu.
Đỗ Phủ
Dich nghĩa:
(em đã tới phủ Giang Lăng rồi)
(vậy hôm nào sẽ tới Giáp châu?)
(vì loạn ly mà phải xa nhau)
(gặp được nhau chắc bệnh sẽ bớt)
(chớp chớp đôi mắt đỏ vì khóc nhiều)
(sáng sáng đều lên nhà sàn trên nước trông ngóng)
(thân già này được nương nhờ nơi em)
(thì không còn lo gì cho nắm xương trắng nữa)
*******
Được Thư Em Trai
*
Được tin em đến Giang Lăng
Biết bao giờ sẽ về đằng Giáp châu
Cuộc đời loạn lạc xa nhau
Anh em gặp chắc bệnh đau khỏi dần
Mắt cay vì lệ tuôn tràn
Sớm hôm trông ngóng, hết gần lại xa
Thân già hẳn được nương nhờ
Hết lo gì nắm xương khô cuối đời
*
SongNguyễn HànTú
代鄰叟言懷
人生何事心無定
宿昔如今意不同
宿昔愁身不得老
如今恨作白頭翁
白居易
Đại Lân Tẩu Ngôn Hoài
*
Nhân sinh hà sự tâm vô định
Túc tích như kim ý bất đồng
Túc tích sầu thân bất đắc lão
Như kim hận tác bạch đầu ông
Bạch Cư Dị
*
Dich nghĩa
(nói giùm ông lão hàng xóm nỗi suy tư)
(vì sao lòng người hay thay đổi)
(ý nghĩ ngày xưa và nay chẳng giống nhau)
(ngày xưa buồn bực vì không được lên lão)
(nay bực tức vì đã thành ông già tóc bạc)
***
Nỗi Lòng Ông Hàng Xóm
*
Thật lạ nhỉ sao lòng người bất định
Ý riêng mình sau trưóc chẳng như nhau
Xưa kia buồn vì chửa được già đầu
Giờ tóc bạc bực đã thành khú đế
*
SongNguyễn HànTú
亂蓬為鬢布為巾
曉踏寒山自負薪
一種錢唐江畔女
著紅騎馬是何人白居易Đại Mãi Tân Nữ Tặng Chư Kỹ
Loạn bồng vi mấn bố vi cân
Hiểu đạp Hàn San tự phụ tân
Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?
Bạch Cư Dị
Dich nghia
(thay lời gái bán củi tặng gái làng chơi)
(cỏ bồng vương trên tóc, vải bố làm khăn)
(sáng sớm đã lên núi Hàn San gánh củi)
(cái thứ con gái ở bến sông Tiền Đường)
(mặc áo đỏ, cưỡi ngựa, là thứ gì vậy?)
*******
Gái Bán Củi, Gái Làng Chơi
*
Chẳng chải chuốt, cỏ bồng vương tóc rối
Hẻm núi Hàn gánh củi sáng mờ sương
Thứ nhởn nhơ, cười cợt dọc Tiền Đường
Nghề gì nhỉ . . . quần hồng trên lưng ngựa ?
*
SongNguyễn HànTú
彈 琴
冷 冷 七 絃 上
靜 聽 松 風 寒
古 調 雖 自 愛
今 人 多 不 彈
劉 長 卿
Đàn Cầm
Lãnh lãnh thất huyền thượng
Tĩnh thính Tùng Phong Hàn
Cổ điệu tuy tự ái
Kim nhân đa bất đàn
Lưu Trường Khanh
(gảy đàn 7 dây)
(bảy dây đàn phát ra những âm lanh lảnh)
(ta lặng nghe tấu bài Tùng Phong Hàn)
(tuy ta ái mộ nhạc điệu cổ xưa)
(nhưng người đời nay phần đông không chơi nữa)
Gẩy Đàn Cầm
Bảy dây đàn thánh thót
Lặng nghe Tùng Phong Hàn
Âm xưa mình yêu thích
Đời nay mấy ai màng
SongNguyễn HànTú
登 安 陸 西 樓
樓 上 花 筵 日 日 開
眼 前 人 事 祇 堪 哀
征 車 自 入 紅 塵 去
遠 水 長 穿 綠 樹 來
雲 雨 暗 更 歌 舞 伴
山 川 不 盡 別 離 杯
無 由 并 寫 春 風 恨
欲 下 鄖 城 首 重 回
趙 嘏
Đăng An Lục Tây Lâu
Lâu thương hoa diên nhật nhật khai
Nhãn tiên nhân sự chỉ kham ai
Chinh xa tự nhập hồng trần khứ
Viễn thủy trường xuyên lục thụ lai
Vân vũ ám canh ca vũ bạn
Sơn xuyên bất tận biệt ly bôi
Vô do tính tả xuân phong hận
Dục há Vận Thành thủ trùng hồi.
Triệu Hỗ
(lên lầu Tây ở An Lục)
(tiệc hoa trên lầu mở hàng ngày)
(nhưng việc đời trưóc mắt thật đau lòng)
(xe cộ cứ lao đi vào cõi bụi hồng)
(dòng sông từ đám cây xanh xa chảy tới)
(mây mưa làm thay đổi đoàn ca múa)
(núi sông làm các chén rượu biệt ly không ngớt)
(khi không ta viết nỗi hờn gió xuân)
(muốn xuống Vận Thành, mà đầu ngoảnh lại)
Ghi chú: An Lục là tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.
Vận Thành là tên đất trong huyện An Lục
Lên Lầu Tây Ở An Lục
Lầu nhộn nhịp tiệc hoa ngày tháng
Việc thế gian chán vạn thương đau
Bụi hồng xe bỏ được đâu
Từ vùng xanh biếc nước vào dòng suôi
Đời ca múa mưa rồi thay đổi
Núi sông kia đâu vợi ly bôi
Khi không giận gió xuân vui
Muốn đi thành Vận, ngó vời lại sau
SongNguyễn HànTú
登 高
風 急 天 高 猿 嘯 哀
渚 清 沙 白 鳥 飛 回
無 邊 落 葉 蕭 蕭 下
不 盡 長 江 滾 滾 來
萬 里 悲 秋 常 作 客
百 年 多 病 獨 登 臺
艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢
潦 倒 新 亭 濁 酒 盃
杜 甫
Đăng cao
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc diệp tiêu tiêu há
Bất tận trường giang cổn cổn lai
Vạn lý bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi
Đỗ Phủ
(lên cao)
(gió giật trên trời cao, vượn kêu ai oán)
(vũng nước trong, cát trắng, chim bay về tổ)
(lá cây theo nhau rụng không ngớt)
(sông dài chảy cuồn cuộn không lúc nào ngưng)
(là kẻ cảm thu nhưng luôn luôn xa nhà vạn dặm)
(năm nào cũng đau ốm, một mình lên đài cao)
(nỗi khó khăn, khổ não làm tóc bạc phơ)
(say lảo đảo mới buông chén rượu đục)
Nơi Đài Cao
Gió lồng lộng,
Vượn kêu
Trời cao vút
Bãi xanh xanh,
Cát trắng
Chim bay về
Lá tả tơi rụng khắp chốn sơn khê
Sông cuồn cuộn nước theo dòng cuốn mãi
Thương lá vàng rơi cuối trời tê tái
Thân xác ê chề đài vắng cô đơn
Tóc trắng phau theo ngày tháng tủi buồn
Đời nghiêng ngả chìm bên ly rượu cặn
SongNguyễn HànTú
登 兗 州 城 樓
東 郡 趐 庭 日
南 樓 縱 目 初
浮 雲 連 海 柋
平 野 入 青 徐
孤 嶂 秦 碑 在
荒 城 魯 殿 餘
從 來 多 古 意
臨 眺 獨 躊 躇
杜 甫
Đăng Duyện Châu Thành
Đông Quận xu đình nhật
Nam lâu túng mục sơ
Phù vân liên Hải Đại
Bình dã nhập Thanh Từ
Cô chưóng Tần bi tại
Hoang thành Lỗ điện dư
Tòng lai đa cổ ý
Lâm diễu độc trừ trừ
Đỗ Phủ
(lên lầu thành Duyện Châu)
(hôm về thăm cha ở Đông Quận)
(ta đứng trên lầu phía nam [cổ thành] nhìn bao quát)
(mây bay đến tận miền Hải Đại)
(đồng bằng kéo dài tới xứ Thanh Từ)
(tấm bia đời Tần còn lưu trên ngọn núi lẻ loi kia)
(di tích cung điện nước Lỗ là thành hoang này)
(từ xưa tới nay, nơi này đã gợi bao ý hoài cổ)
(mình ta đứng ngắm, dùng dằng chửa muốn về)
Lên Lầu Thành Duyện Châu
Ghé về Đông Quận thăm cha
Lên lầu Nam ngó gần xa quanh vùng
Mây trời Hải Đại mênh mông
Vùng Thanh Từ vẫn ruộng đồng xanh tươi
Bia Tần đỉnh núi lẻ loi
Điện đài triều Lỗ tả tơi hoang tàn
Nỗi niền hoài cổ chứa chan
Dùng dằng lòng những muốn quên giờ về
SongNguyễn HànTú
登 金 陵 鳳 凰 臺
鳳 凰 臺 上 鳳 凰 遊
鳳 去 臺 空 江 自 流
吳 宮 花 草 埋 幽 徑
晉 伐 衣 冠 成 古 丘
三 山 半 落 青 天 外
二 水 中 分 白 鷺 洲
總 為 浮 雲 能 蔽 日
長 安 不 見 使 人 愁
李 白
Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài
Phụng Hoàng đài thượng phụng hoàng du
Phụng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu
Lý Bạch
(lên đài Phụng Hoàng ở Kim Lăng)
(khi xưa chim phụng hoàng đã đến đài Phụng Hoàng)
(nay chim phụng hoàng đã bay đi, dòng sông vẫn chảy)
(hoa và cỏ dại mọc kín đường đi tối tăm trong cung vua Ngô)
(áo mũ đời Tấn đã chôn vùi trong gò đất kia)
(ánh náng chiếu sáng một nửa núi ba ngọn)
(sông tẽ hai nhánh tạo ra bãi cát “Cò Trắng”)
(chỉ vì mây nổi che khuất mặt trời)
(khiến người không thấy hướng Trường An mà lòng buồn bã)
Ghi chú: Kim Lăng xưa là kinh đô của nước Ngô thời Tam Quốc,
và các triều đại Đông Tấn, Tống, Minh…Nay là tỉnh Nam Kinh
Phụng Hoàng Đài
Xưa đài Phụng
Phượng nhởn nhơ
Giờ đây chốn cũ
Bóng chim khuất mờ
Cỏ hoa che lối cung Ngô
Áo vua quan Tấn chôn hờ gò xưa
Núi biêng biếc
Trời xanh lơ
Cồn hoang Bạch Lộ chia bờ nhánh sông
Mặt trời khuất
Mây bềnh bồng
Trường An nhạt bóng
Bâng khuâng lòng người
SongNguyễn HànTú
登 樂 遊 原
向 晚 意 不 適
驅 車 登 古 原
夕 陽 無 限 好
只 是 近 黃 昏
李 商 隱
Đăng Lạc Du Nguyên
Hướng vãn ý bất thích
Khu xa đăng cổ nguyên
Tịch dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn
Lý Thương Ẩn
(chạy vào đồng cỏ Lạc Du)
(buổi chiều lòng không biết làm gì)
(bèn đánh xe chạy vào đồng cỏ hoang sơ)
(thấy nắng chiều đẹp vô cùng)
(chỉ tiếc là hoàng hôn đã cận kề)
Ghi chú: Lạc Du nguyên là một đồng cỏ bao la, xưa có lúc Hán
Tuyên Đế từng lập triều đình ở đó; đến đời Đưòng có vua đặt lăng mộ
nay thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
Lên đồng cỏ Lạc Du
Trời chạng vạng
Lòng rỗng không trống vắng
Nên rong xe thơ thẩn viếng nơi xưa
Nắng chiều nghiêng đẹp biết mấy cho vừa
Nhưng tiếc quá…màn đêm dần buông xuống
SongNguyễn HànTú
登 樓
花 近 高 樓 傷 客 心
萬 方 多 難 此 登 臨
錦 江 春 色 來 天 地
玉 壘 浮 雲 變 古 今
北 極 朝 廷 終 不 改
西 山 寇 盜 莫 相 侵
可 憐 後 主 還 祠 廟
日 暮 聊 為 梁 父 吟
杜 甫
Đăng Lâu
Hoa cận cao lâu thương khách tâm
Vạn phương đa nạn thử đăng lâm
Cẩm Giang xuân sắc lai thiên địa
Ngọc Lũy phù vân biến cổ kim
Bắc cực triều đình chung bất cải
Tây Sơn khấu đạo mạc tương xâm
Khả liên Hậu Chủ hoàn từ miếu
Nhật mộ liêu vi “Lương Phủ Ngâm”
Đỗ Phủ
(lên lầu)
(hoa nở gần lầu cao làm chạnh lòng khách)
(vì khắp nơi hoạn nạn mà ta lên đây)
(dáng xuân đã trở về trên trời đất sông Cẩm Giang)
(mây nổi trên núi Ngọc Lũy vẫn ngàn năm biến hóa)
(cuồi cùng thì triều đình ở phương bắc không thay đổi)
(còn bọn giặc cướp ở núi Tây Sơn cũng không xâm phạm)
(thương cho Hậu Chủ vẫn còn miếu thờ phụng)
(ngày tàn rồi, ta ngâm nga khúc Lương Phủ)
Ghi chú: Đỗ Phũ làm bài này trong thời gian ông trú ngụ trong thảo đường cất ở ngoại ô
Thành Đô, nay là thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên. Sông Cẩm Giang, núi Ngọc Lũy,
núi Tây Sơn, từ miếu của Hậu Chủ (vua kế nghiệp Lưu Bị, bị Tào Phi thôn tính)
đều có thể thấy được từ Thành Đô. Lương Phủ Ngâm là thi tập của
Khổng Minh Gia Cát Lượng sáng tác khi còn hàn vi để lại cho hậu thế.
Lên Lầu
Hoa lộng lẫy bên lầu…lòng tan tác
Bước lên đây lúc khắp chốn tang thương
Xuân lại về trên sóng nước Cẩm Giang
Núi Ngọc Lũy mây lững lờ muôn thuở
Nơi phương bắc triều đình còn say ngủ
Giặc Tây Sơn thôi gây cảnh nhiễu nhương
Hậu Chủ còn được thờ phụng đèn hương
Chiều dần xuống, ngâm nga thơ Lương Phủ
SongNguyễn HànTú
登 樓
槐 柳 蕭 疏 繞 郡 城
夜 添 山 雨 作 江 聲
秋 風 南 陌 無 車 馬
獨 上 高 樓 故 國 情
羊 士 諤
Đăng Lâu
Hòe liễu tiêu sơ nhiễu quận thành
Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh
Thu phong nam mạch vô xa mã
Độc thướng cao lâu cố quốc tình
Dương Sĩ Ngạc
(lên lầu)
(hoa hòe và hoa liễu xác xơ quanh thị trấn)
(mưa đêm qua trên núi chảy xuống sông ào ào)
(con đường suôi nam có gió thu, không ngựa xe)
(một mình ta trên lầu cao với nỗi nhớ nhà)
Trên Lầu
Liễu, hòe xơ xác trong thành quận
Nước núi rì rào chảy về sông
Đường nam vắng vẻ thu phong thổi
Lầu hướng trông quê dạ não nùng
SongNguyễn HànTú
漳 汀 封 連
四 州 刺 史城 上 高 樓 接 大 荒
海 天 愁 思 正 茫 茫
驚 風 亂 颭 芙 蓉 水
密 雨 斜 侵 薜 荔 牆
嶺 樹 重 遮 千 里 目
江 流 曲 似 九 迴 腸
共 來 百 越 文 身 地
猶 是 音 書 滯 一 方柳 宗 元
Đăng Liễu Châu Thành Lâu Ký Chưong
Đinh Phong Liên Tứ Châu Thứ Sử
Thành thượng cao lâu tiếp đại hoang
Hải thiên sầu tứ chính mang mang
Kinh phong loạn chiểm phù dung thủy
Mật vũ tà xâm tế lệ tường
Lĩnh thụ trùng già thiên lý mục
Giang lưu khúc tự cửu hồi trường
Cộng lai Bách Việt văn thân địa
Do thị âm thư trệ nhất phương
Liễu Tông Nguyên
(lên lầu thành Liễu Châu viết gửi các quan Thứ Sử
ở bốn châu: Chương, Đinh, Phong và Liên)
(đứng trên lầu cao trên thành nhìn ra vùng đất bao la)
(lòng buồn man mác như trời biển)
(gió thổi mạnh trên mặt nước đầm sen)
(hạt mưa rào rơi xiên trên bức tường có cỏ tế lệ leo)
(cây cao trên núi lớp lớp che tầm mắt cà ngàn dặm)
(dòng sông chảy quanh co như 9 khúc ruột)
(cùng đền cái xứ Bách Việt có tục vẽ mình này)
(cho tới bây giờ vẫn là nơi thư từ tới trễ)
Ghi chú: Liễu Tông Nguyên thi đậu Tién sĩ, làm quan tới Giám sát ngự sử. Sau bị biềm ra làm
Thứ sử Liễu châu, nay thuộc huyện Mã Bình, tỉnh Quảng Tây. Ông làm bài này năm 815, để gửi
4 bạn đồng liêu cũng vừa bị biếm ra làm Thứ sử ở các nơi gần mình
Lên Lầu Thành Liễu Châu
Thành cao vút
Đất bao la trùng điệp
Nghe trong lòng man mác nỗi niềm riêng
Gió từng hồi, sen gãy rạp ngả nghiêng
Mưa như trút trên bờ tường rêu phủ
Cây cao vợi che khuất tầm mắt ngó
Sông lững lờ uốn chín khúc lượn quanh
Cùng tới vùng dân Bách Việt sâm mình
Thư chẳng thấy
Chắc nơi nào ngưng trệ
SongNguyễn HànTú
登 岳 陽 樓
昔 聞 洞 庭 水
今 上 岳 陽 樓
吳 楚 東 南 坼
乾 坤 日 夜 浮
親 朋 無 一 字
老 病 有 孤 舟
戎 馬 關 山 北
憑 軒 涕 泗 流
杜 甫
Đăng Nhạc Dương Lâu
Tích văn Động Đình thủy
Kim thướng Nhạc Dương lâu
Ngô Sở đông nam sách
Càn khôn nhật dạ phù
Thân bằng vô nhất tự
Lão bệnh hữu cô chu
Nhung mả quan san bắc
Bằng hiên thế tứ lưu
Đỗ Phủ
(lên lầu Nhạc Dương)
(xưa vẫn nghe danh hồ Động Đình)
(nay mới được lên lầu Nhạc Dương)
(đất Ngô ở phía đông, đất Sở ở phía nam của hồ)
(trời đất, đêm ngày luân chuyển)
(bà con, bạn bè không nhận đưọc một chữ thư tín)
(ta tuổi già và bệnh tật chỉ có chiếc thuyền cô đơn này)
(nơi biên cương phía bắc đang có giao chiến)
(ta vịn lan can mà nước mắt chứa chan)
Ghi chú: hồ Động Đình ăn thông với sông Trường Giang, ở phía bắc tình
Hồ Nam ngày nay. Nhạc Dương là tên thành, có lầu cao nhìn ra hồ Động Đình.
Đỗ Phủ làm bài này năm ông 56 tuổi, trên đường lưu lạc với vợ con, cả nhà trên một
chiếc ghe nhỏ. Hai năm sau ông mất khi chiếc ghe vẫn lênh đênh chưa biết ghé nơi đâu,
trong hoàn cảnh vô cùng nghèo túng. Xác ông phải tạm vùi bên bờ sông, hơn 50 năm
sau cháu nội mới cải táng về nghĩa trang họ Đỗ ở núi Thú Dưong, tỉnh Cam Túc ngày nay.
Lên lầu Nhạc Dương
Động Đình mơ ước từ lâu
Thì nay được đứng trên lầu Nhạc Dương
Đông, nam Ngô, Sở hai phương
Bao la trời nước cánh buồm nổi trôi
Tin thư chẳng được một lời
Bệnh, già, thuyền chiếc giữa trời bao la
Đao binh mờ mịt ải xa
Tựa hiên mắt lệ nhạt nhòa rơi tuôn
SongNguyễn HànTú
登 鸛 雀 樓
鸛 雀 樓 西 百 尺 檣
汀 洲 雲 樹 共 茫 茫
漢 家 簫 鼓 空 流 水
魏 國 山 河 半 夕 陽
事 去 千 年 猶 恨 遫
愁 來 一 日 正 為 長
風 煙 併 是 思 歸 望
遠 目 非 春 亦 自 傷
李 益
Đăng Quán Tước Lâu
Quán Tước lầu tây bách xích tường
Đinh Châu vân thụ cộng mang mang
Hán gia tiêu cổ không lưu thủy
Ngụy quốc sơn hà bán tịch dương
Sự khứ thiên niên do hận tốc
Sầu lai nhất nhật chính vi trường
Phong yên tính thị tư quy vọng
Viễn mục phi xuân diệc tự thương
Lý Ích
(lên lầu thành Quán Tước)
(về phía tây lầu Quán Tước thấy cột buồm cao trăm thước)
(mây và cây cối ở bãi sông Đinh hòa thành cảnh bao la)
(tiếng sáo và tiếng trống đời Hán như vẳng trong tiếng nước chảy)
(non sông nước Ngụy chìm nửa trong nắng chiều)
(việc đã qua cả ngàn năm vẫn tức là sao mau thế)
(nỗi buồn tới có một ngày lại thấy dài lê thê)
(gió thổi sương khói bay làm trạnh nhớ nhà)
(nhìn ra xa xa chảng còn xuân sắc, lòng càng quặn đau)
Lên Lầu Quán Tước
Lầu tây Quán Tước cột buồm ai
Bát ngát cây, mây bãi trải dài
Sáo, trống Hán gia theo nước chảy
Non sông Ngụy quốc nắng chiều phai
Ngàn năm mối hận mau tan biến
Giận mãi, ngày thôi, cũng quá dài
Sương gió gợi thương về chốn cũ
Nhìn xuân tàn tạ luống bi ai
SongNguyễn HànTú
登 鸛 雀 樓
白 日 依 山 盡
黃 河 入 海 流
欲 窮 千 里 目
更 上 一 層 樓
王 之 渙
Đăng Quán Tước Lâu
Bạch nhật y sơn tận
Hoàng Hà nhập hải lưu
Dục cùng thiên ký mục
Cánh thưóng nhất tằng lâu
Vương Chi Hoán
(lên lầu Quán Tước)
(mặt trời chiếu sáng rõ ràng triền núi)
(sông Hoàng Hà chảy ra biển)
(muốn nhìn xa ngàn dặm)
(thì nên lên thêm 1 tầng lầu nữa)
Ghi chú: Thành Quán Tước có nhiều lầu cao, nay còn
di tích ở huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây
Lên Lầu Quán Tước
Sườn non nắng tỏa rạng ngời
Hoàng giang hòa nhập biển khơi mịt mùng
Muốn nhìn xa tận muôn trùng
Bước thêm lầu nữa, mắt trông cuối trời
SongNguyễn HànTú
登 山
終 日 昏 昏 醉 夢 間
忽 聞 春 盡 強 登 山
因 過 竹 院 逢 僧 話
又 得 浮 生 半 日 閑
李 涉
Đăng Sơn
Chung nhật hôn hôn túy mộng gian
Hốt văn xuân tận cưỡng đăng sơn
Nhân qua trúc viện phùng tăng thoại
Hựu đắc phù sinh bán nhật gian
Lý Thiệp
(lên núi)
(cả ngày mơ màng trong cơn say)
(chợt nghe người ta nói xuân tàn, ta gượng lên núi)
(nhân lúc đi ngang chùa tre, gặp sư đứng lại chuyện trò)
(thế là ta lại được nửa ngày an nhàn trong kiếp ngắn ngủi này)
Lên Núi
Suốt ngày nửa tỉnh nửa say
Cố leo núi kẻo mai đây xuân tàn
Ngang qua điện trúc giữa đàng
Gặp sư trò truyện cũng xong nửa ngày
SongNguyễn HànTú
登 幽 汌 台 歌
前 不 見 古 人
後 不 見 來 者
念 天 地 之 悠 悠
獨 愴 然 而 涕 下
陳 子 昂
Đăng U Châu Đài Ca
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế hạ
Trần Tử Ngang
(bài thơ làm khi lên đài cao thành U Châu)
(nhìn trước, không thấy người xưa)
(trông sau, cũng chẳng thấy ai sắp đến)
(cảm nhận được trời đất bao la)
(buồn vì nỗi cô đơn mà rơi lệ)
Ghi chú: U Châu lúc Trần Tử Ngang đến chơi, là cố đô của nước Yên
thời Chiến Quốc đã bị Tần Thủy Hoàng thôn tính. Ngày nay là thủ đô
Bắc Kinh của Trung Quốc.
Độc Hành
Người xưa khuất nẻo xa vời
Nhìn quanh chỉ thấy giữa đời mình ta
Thế gian trời đất bao la
Phận người bé nhỏ xót xa lệ trào
SongNguyễn HànTú
滕 王 閣
期 一
滕 王 高 閣 臨 江 渚
佩 玉 嗚 鑾 罷 歌 舞
畫 棟 朝 飛 南 浦 雲
珠 簾 暮 捲 西 山 雨
期 二
閒 雲 潭 影 日 悠 悠
物 換 星 移 幾 度 秋
閣 中 帝 子 今 何 在
檻 外 長 江 空 自 流
王勃
Đằng Vương Các
Kỳ nhất
Đằng Vương cao các lâm giang trữ
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam Phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ
Kỳ nhị
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tữ kim hà tại
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu
Vương Bột
(gác Đằng Vương)
Kỳ nhất
(gác cao Đằng Vương cất trên bãi sông)
(không còn cảnh người đeo ngọc, xe loan có chuông đến ca múa nữa)
(nhìn qua những cột vẽ hoa, thấy mây buổi sáng bay trên Nam Phố)
(buổi chiều nhìn qua rèm ngọc, thấy mưa trên núi Tây Sơn)
Kỳ nhị
(những đám mây lang thang vẫn ngày ngày in bóng trên mặt đầm)
(vật đổi sao dời đã được vài năm rồi)
(thế người con của Hoàng đế bây giờ đâu rồi?)
(ngoài hiên, sông Trường Giang vẫn cứ chảy hoài)
Ghi chú: Đằng Vương Các, do Lý Nguyên Anh là con của Đường Cao Tổ (Lý Uyên), tước Đằng Vương xây khi làm thứ sử Hồng Châu nay là huyện Tân Kiến, tỉnh Giang Tây. Khi Vương Bột ghé thăm năm 675 thì Đăng Vương Các mới bỏ phế có vài năm.
Gác Đằng Vương
kỳ nhất
Bên sông ấy, xưa Đằng Vưong in bóng
Giờ còn đâu tiếng ngọc chạm, chuông va
Giải mây Nam nét trên cột chưa mờ
Rèm ngọc cuốn núi Tây Sơn còn đó
kỳ nhị
Bóng mây vẫn lững lờ trên đầm cũ
Cảnh đổi thay qua đã biết bao thu
Người xưa đâu?
Đây chốn cũ bây giờ
Trường Giang vẫn tháng ngày trôi hờ hững!
SongNguyễn HànTú
桃 花 溪
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
張 旭
Đào Hoa Khê
Ẩn ẩn Phi kiều cách dã yên
Thạch ky tây bạn vấn ngư thuyền
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy
Động tại Thanh Khê hà xứ biên
Trương Húc
(suối hoa đào)
(cầu cao ẩn hiện trong sương khói xóm làng)
(đứng trên hòn đá phía bờ Tây hõi bác chài)
(rằng hoa đào cứ suốt ngày trôi theo dòng nước)
(thì hang động ở bên nào suối nước trong này?)
Suối Hoa Đào
Cầu sau sương khói cao vời
Bờ Tây thấy bác chài vui hỏi đường
Suốt ngày mặt nước hoa vương
Chỉ dùm động mé nào nguồn suối trong
SongNguyễn HànTú
桃 花
暖 觸 衣 襟 漠 漠 香
間 梅 遮 柳 不 勝 芳
數 枝 艷 覆 文 君 酒
半 里 紅 欹 宋 玉 牆
盡 日 無 人 疑 悵 望
有 時 輕 雨 乍 凄 涼
舊 山 山 下 還 如 此
回 首 東 風 一 斷 腸
羅 隱
Đào Hoa
Noãn xúc y khâm mạc mạc hương
Gián mai già liễu bất thăng phưong
Sổ chi diễm phú Văn Quân tửu
Bán lý hồng y Tống Ngọc tường
Tận nhật vô nhân nghi trướng vọng
Hữu thời khinh vũ xạ thê lương
Cựu sơn son hạ hoàn như thử
Hồi thủ đông phong nhất đoạn trường
La Ẩn
(hoa đào)
(hương thơm nồng ấm đượm cả vào quần áo)
(hương thơm lấn lưót cả hoa mai và hoa liễu)
(vài cành hoa đẹp lả lướt bên chén rượu Văn Quân)
(màu hồng của hoa nương tường nhà Tống Ngọc cả nửa dặm)
(cả ngày không ai đến hoa như buồn vì trông ngóng)
(có lúc trời chợt mưa nhẹ, trông thật ảm đạm)
(đấy là ở chân núi cũ mà còn như thế)
(quay đầu nhìn cơn gió đông mà đau lòng thêm)
Ghi chú: Văn Quân, tức Trác Văn Quân người đời Hán. Là 1 góa phụ, con nhà giàu, Văn Quân
mê tài đàn & ca của Tư Mã Tương Như đã bỏ nhà theo Tư Mã Tương Như mở quán rượu sống
với nhau như vợ chồng ở huyện Lâm Cùng, tỉnh Tứ Xuyên, trong cảnh nghèo khó.
Tống Ngọc, người nước Sở thời Chiến Quốc. Có tài thơ văn và vóc dáng đẹp đẽ.
Hoa Đào
Vương trên áo mùi hương thơm ngào ngạt
Mai, liễu đâu sánh kịp vẻ kiêu sa
Bên Văn Quân lả lướt mấy cành hoa
Ven tường Ngọc nửa dặm hồng rực rỡ
Sao vắng quá!
Khách thưởng hoa đâu cả
Mưa sụt sùi
Ngấn lệ nhỏ…sầu thương !
Cảnh núi xưa còn gây lắm vấn vương
Ngoảnh trông gió đông sang buồn ảm đạm
SongNguyễn Hàn Tú
瑤 瑟 怨
冰 簟銀 床 夢 不 成
碧 天 如 水 夜 雲 輕
雁 聲 遠 過 瀟 湘 去
十 二 樓 中 月 自 明
溫庭荺
Dao sắt oán
*
Băng điệm ngân sàng mộng bất thành
Bích thiên như thủy, dạ khinh vân
Nhạn thanh viễn quá Tiêu Tương khứ
Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh
*
Ôn Đình Quân
Dịch nghĩa:
(bài oán đàn Dao Sắt)
(chiếu lạnh giường bạc, ngủ không được)
(trời xanh biếc như nước, mây đêm trôi)
(tiếng nhạn bay xa khỏi vùng Tiêu Tương)
(trăng sáng vẫn chiếu trên 12 ngôi lầu)
*******
Nỗi Oán Cung Đàn
*
Giường bạc lạnh lùng không tròn mộng
Trời xanh, mây lửng giữa màn đêm
Vượt Tiêu tiếng nhạn dần tan biến
Lầu ngập trăng khuya ánh diệu huyền
*
SongNguyễn HànTú
擣 衣
亦 知 戍 不 返
秋 至 拭 清 砧
已 近 寒 苦 月
況 經 長 別 心
寧 辭 擣 衣 倦
一 寄 塞 垣 深
用 盡 閨 中 力
君 聞 空 外 音
杜 甫
Đảo Y
Diệc tri thú bất phản
Thu chí thức thanh châm
Dĩ cận hàn khổ nguyệt
Huống kinh trường biệt tâm
Ninh từ đảo y quyện
Nhất ký tái viên thâm
Dụng tận khuê trung lực
Quân văn không ngoại âm
Đỗ Phủ
(đập áo)
cũng đã biết người đi lính lâu trở về)
(nên thu tới đã lau sạch đá đập áo)
(nay tháng lạnh buốt đã cận kề)
(lại nữa tấm lòng xa nhau đã lâu)
(nên không còn thấy nhọc nhằn khi đập áo)
(để gửi cho chàng nơi biên ải xa xôi)
(thiếp đã đem hết sức mình trong phòng the)
(vậy chàng có nghe tiếng đập vọng tới không?)
Đập Áo
Biết rằng người chẳng trở về
Lau chầy đá sạch lòng nghe não nùng
Tới rồi giá buốt mùa đông
Thương chàng ngàn dặm lạnh lùng lắm khi
Nhọc nhằn giặt áo đáng gì
Mảnh tình gởi gấm người đi ấm lòng
Tiếc gì cực phận má hồng
Mong chàng cảm ý thiếp trong tiếng chầy
SongNguyễn HànTú
答 李 澣
林 中 觀 易 罷
溪 上 對 鷗 閒
楚 俗 饒 詞 客
何 人 最 往 還
韋 應 物
Đáp Lý Cán
Lâm trung quan Dịch bãi
Khê thượng đối âu nhàn
Sở tục nhiêu từ khách
Hà nhân tối vãng hoàn
Vi Ứng Vật
(hồi âm Lý Cán)
(đọc Kinh Dịch ở trong rừng xong)
(ta ra bờ suối hưởng nhàn với chim âu)
(đất Sở có tục lệ trọng thi nhân)
(thì ai là người sẽ luôn đến với ta ?)
Trả Lời Lý Cán
Kinh Dịch đã đọc xong rồi
Ra bờ suối ngắm âu trời nhởn nhơ
Tục Sở trọng giới làm thơ
Nào ai là kẻ mộng mơ quanh mình
SongNguyễn HànTú
答 人
偶 來 松 樹 下
高 枕 石 頭 眠
山 中 無 歷 日
寒 盡 不 知 年
太 上 隱 者
Đáp Nhân
Ngẫu lai tùng thụ hạ
Cao chẩm thạch đầu miên
Sơn trung vô lịch nhật
Hàn tận bất tri niên
Thái Thượng Ẩn Giả
Trả lời người
(tình cờ tới gốc cây thông)
(gối cao đầu lên một phiến đá mà ngủ)
(trong núi không có lịch coi ngày)
(nên hết mùa lạnh rồi mà cũng chẳng biết năm gì)
Trả Lời Người
Ngả lưng dưới gốc thông già
Gối đầu trên đá mộng qua giấc đầy
Thâm sơn chẳng tháng cùng ngày
Lạnh vừa qua hết chẳng hay năm nào
SongNguyễn HànTú
答 武 陵 太 守
仗 劍 行 千 里
微 軀 敢 一 言
曾 為 大 梁 客
不 負 信 陵 恩
王 昌 齡
Đáp Vũ Lăng Thái Thú
Trượng kiếm hành thiên lý
Vi khu cảm nhất ngôn
Tằng vi Đại Lương khách
Bất phụ Tín Lăng ân
Vương Xưong Linh
(trả lời qian Thái thú đất Vũ Lăng)
(đã mang kiếm đi xa ngàn dặm)
(kẻ hèn này dám thưa một lời)
(rằng nếu đã là khách của thành Đại Lương xưa)
(thì chẳng ai phụ ơn của Tín Lăng Quân đâu)
Ghi chú: Vũ Lăng, ngày nay là huyện Thường Đức, tỉnh Hồ Nam.
Đại Lương là cố đô của nước Ngụy thời Chiến Quốc, naythuộc tỉnh Hà Nam.
Tín Lăng Quân là em An Ly Vương (vua nước Ngụy), ngụ tại Đại Lương. Tín Lăng Quân rất khiêm tốn và chiêu hiềnđãi sĩ rất hậu.
Trả Lời
Quyết vung gươm khắp phương trời
Thân này chỉ dám một lời cùng quan
Ơn xưa thành Đại Lương ban
Chẳng ai phụ Tín Lăng Quân được nào
SongNguyễn HànTú
題 菊 花
颯 颯 西 風 滿 院 栽
蕊 寒 香 冷 蝶 難 來
他 年 我 若 為 青 帝
報 與 桃 花 一 處 開
黃 巢
Đề Hoa Cúc
Táp táp tây phong mãn viện tài
Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai
Tha niên ngã nhược vi thanh đế
Báo dữ đào hoa nhất xứ khai
Hoàng Sào
( thơ về hoa cúc)
(gió tây thổi lồng lộng khắp tòa nhà)
(khiến hoa [cúc] trong vườn lạnh lẽo bướm ngại tới)
(năm nào ví như ta được làm chúa tể muôn hoa)
(sẽ truyền cho [hoa cúc] nở cùng lúc với hoa đào [gió đông]
Hoa Cúc
Gió Tây lồng lộng rít quanh nhà
Hương nhụy lạnh lùng bướm ngại qua
Ví thử được trời phong hoa chúa
Cho cùng khoe sắc với đào hoa
SongNguyễn HànTú
題 大 庾 北 驛
陽 月 南 飛 雁
傅 聞 至 此 回
我 行 殊 未 已
何 日 復 歸 來
江 靜 潮 初 落
林 昏 瘴 不 開
明 朝 望 鄉 處
應 見 隴 頭 梅
宋 之 問
Đề Đại Dữu Bắc Dịch
Dương nguyệt nam phi nhạn
Truyền văn chí thử hồi
Ngã hành thù vị dĩ
Hà nhật phục quy lai
Giang tĩnh triều sơ lạc
Lâm hôn chứng bất khai
Minh triêu vọng hương xứ
Ưng kiến lũng đầu mai
Tống Chi Vấn
(viết tại trạm nghỉ phía bắc núi Dữu Lớn)
(cứ tới tháng 10 là chim nhạn bay về phía nam)
(nhưng người ta nói chúng chỉ bay tới đây là quay về bắc)
(ta đi vẫn chưa muốn thôi)
(nên chưa biết ngày nào quay về)
(mặt sông phẳng lặng, nước dòng bắt đầu rút)
(rừng u tối vì chướng khí không tan)
(ngày mai từ chỗ đứng vọng nhìn về hướng quê cũ)
(hẳn là sẽ thấy khóm hoa mai mọc trên gò ruộng cao)
Ghi chú: Đời Tấn có người họ Dữu đến khẩn hoang ở dãy núi nay thuộc phủ Triều Châu
tỉnh Quảng Tây. Ông trồng mai phát triển thành rừng, và dãy núi đó đã mang tên
ông là Dữu Lĩnh. Đại Dữu là quả núi lớn nhất trong dãy núi đó.
Dương nguyệt: tháng 10 âm lịch
Đề Nơi Trạm Bắc Đại Dữu
Trời tháng mười, nhạn xuôi Nam tránh lạnh
Đồn tới đây lại bay ngược trở về
Riêng mình ta vẫn cứ miệt mài đi
Đời mưa gió chẳng bao giờ định hướng
Sông phẳng lặng, thủy triều vừa rút xuống
Rừng tối tăm, chưóng khí quyện chưa tan
Đợi sáng mai nhìn về phía xóm làng
Hẳn thấy ngập sắc mai gò quanh đấy
SongNguyễn HànTú
題 東 溪 公 幽 居
杜 陵 賢 人 清 且 廉
東 溪 卜 築 歲 時 淹
宅 近 青 山 同 謝 眺
門 垂 碧 柳 似 陶 潛
好 鳥 迎 春 歌 後 院
飛 花 送 酒 舞 前 簷
客 到 但 知 留 一 醉
盤 中 衹 有 水 精 鹽
李 白
Đề Đông Khê Công U Cư
Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm
Đông Khê bốc trúc tuế thì yêm
Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm
Hải điểu nghênh xuân ca hậu viện
Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm
Khách đáo đản tri lưu nhất túy
Bàn trung chỉ hữu thủy tinh diêm
Lý Bạch
(viết về căn nhà Ông Đông Khê ở ẩn)
(người hiền tài đất Đỗ Lăng đã thanh bạch lại liêm khiết)
(dựng nhà bên suối Đông Khê ở ẩn đã lâu)
(nhà gần bên núi xanh giống Tạ Diễu)
(có dương liễu biếc rủ ngoài cửa giống Đào Tiềm)
(chim hải âu hót mừng xuân đằng sau nhà)
(trước thềm hoa bay như múa bên bàn rượu)
(khách đến đều được giữ lại uống một chầu rượu)
(trong mâm có độc một món muối trắng)
Ghi chú: Đỗ Lăng: tên đất, ở đông nam thành Trường An, Lý Bạch có nhà ở đây trong thời
gian giúp vua Đường Minh Hoàng.
Tạ Diễu: người đời Lục Triều, nổi tiếng về thơ ngũ ngôn.
Đào Tiềm: người đời Tấn, giỏi thơ văn, trước sân nhà có trồng 5 cây liễu.
Nơi Ông Đông Khê Ở Ẩn
Người Đỗ Lăng tiếng thanh liêm hiền đức
Chọn Đông Khê làm nơi sống ẩn cư
Giữa núi xanh tựa Tạ Diễu thủa giờ
Cũng sân trước như nhà Đào liễu rủ
Xuân trở lại đám hải âu về tụ
Hoa chao bay lượn mời khách nâng ly
Đãi khách xa ngoài rượu chẳng có gì
Trên mâm độc chỉ một màu muối trắng
SongNguyễn HànTú
題 游 仙 閣 息 公 廟
仙 冠 輕 舉 竟 何 之
薜 荔 緣 階 竹 映 祠
甲 子 不 知 風 御 日
朝 昏 唯 見 雨 來 時
霓 旌 翠 蓋 終 難 遇
流 水 青 山 空 所 思
逐 客 自 憐 雙 鬢 改
焚 香 多 負 白 雲 期
李 嘉 祐
Đề Du Tiên Các Tức Công Miếu
Tiên quan khinh cử cánh hà chi
Tế lệ duyên giai trúc ánh từ
Giáp tí bất tri phong ngự nhật
Triêu hôn duy kiến vũ lai kỳ
Nghê tinh thúy cái chung nan ngộ
Lưu thủy thanh sơn không sở tư
Trục khách tự lân song mấn cải
Phần hương đa phụ bạch vân kỳ
Lý Gia Hựu
(thơ cho miếu Tức Công, quán Du Tiên)
(rốt cuộc thì mũ tiên nhẹ nhõm đã bay đâu rồi)
(chỉ còn cỏ hoang trên thềm và bụi trúc vàng bên miếu)
(thời gian không biết tiên bay đi ngày nào)
(còn không gian chỉ thấy mưa bay bay)
(khó còn thấy lại cờ 5 màu và lọng xanh)
(nhìn nước chảy, núi xanh mà suy tưởng lan man)
(khách đi đày tự thương cho tóc mình đã bạc)
(thắp nén hương tạ lỗi đã lỡ chuyến lên mây trắng rồi)
Đề Miếu Tức Công, Quán Tiên Du
Tìm đâu nữa cảnh mũ tiên phơi phới
Có còn chăng đám cỏ mọc ven thềm
Phản ánh vàng bụi trúc chiếu lên đền
Đâu ai biết ngày nào tiên lướt gió
Chỉ còn lại thoáng mưa bay đây đó
Lọng biếc xanh, cờ ngũ sắc còn đâu
Bâng khuâng theo núi biếc, nước qua cầu
Kiếp đầy ải lúc tóc xanh điểm tuyết
Lẫn trong mây…vẩn khói nhang hối tiếc
SongNguyễn HànTú
屋 壁何 年 顧 虎 頭
滿 壁 畫 滄 洲
赤 日 石 林 氣
青 天 江 海 流
錫 飛 常 近 鶴
杯 渡 不 驚 鷗
似 得 盧 山 路
真 隨 惠 遠 遊杜 甫
Đề Huyền Vũ Thiền Sư Ốc Bích
Hà niên Cố Hổ Đấu
Mãn bích họa Thương Châu
Xích nhật thạch lâm khí
Thanh thiên giang hải lưu
Tích phi thường cận hạc
Bội độ bất kinh âu
Tự đắc Lư Sơn lộ
Chân tùy Huệ Viễn du
Đỗ Phủ
(viết về vách nhà của Thiền sư Huyền Vũ)
(không biết năm nào o^ng Cố Hổ Đầu)
(đã vẽ đầy tường các cảnh ở chốn Thần Tiên)
(mặt trời đỏ ối chiếu vào sương khói bốc lên từ núi rừng)
(dòng sông chảy ra biển dưới bầu trời xanh)
(cảnh tiên cưỡi gậy bay cạnh hạc)
(cảnh tiên ngồi trong chén qua biển không làm chim hải âu lo)
(ta tưởng như đang đi trên đường núi Lư Sơn)
(và thực sự đang cùng sư Huệ Viễn ngao du)
Ghi chú: Huyền Vũ, có lẽ là pháp hiệu khác của Huệ Viễn chăng?
Huệ Viễn, cao tăng đương thời với Cố Hổ Đầu, tu trên núi Lư Sơn
Thương Châu, cảnh giới của Thần Tiên ở
Vách Nhà Của Thiền Sư Huyền Vũ
Nào ai biết Cố Hổ Đầu phác họa
Cảnh Thương Châu trên vách tự bao giờ
Ánh dương làm đá rừng tỏa sương mơ
Trời xanh biếc, nước triều miên man chảy
Cưỡi gậy hòa cùng hạc đàn bay nhẩy
Trên chén, thuyền đâu khuấy động chim trời
Ngỡ Lư Sơn đang được dạo rong chơi
Thực vẫn bước bên cạnh thầy Huệ Viễn
SongNguyễn HànTú
題 鴻 都 觀
亡 吳 霸 越 已 功 全
深 隱 雲 林 始 學 仙
鸞 鶴 自 飄 三 蜀 駕
波 濤 猶 憶 五 湖 船
雙 溪 夜 月 嗚 寒 玉
眾 嶺 秋 空 斂 翠 煙
也 有 扁 舟 歸 去 興
故 鄉 東 望 思 綿 綿
杜 光 庭
Đề Hồng Đô Quán
Vong Ngô bá Việt dĩ công tuyền
Thâm ẩn vân lâm thủy học tiên
Loan hạc tự phiêu Tam Thục giá
Ba đào do ức Ngũ Hồ thuyền
Song khê dạ nguyệt minh hàn ngọc
Chúng lãnh thu không liễm thúy yên
Dã hữu thiên chu quy khứ hứng
Cố hương đông vọng tứ miên miên
Đỗ Quang Đình
(viết về miếu Hồng Đô)
(đã làm nên công diệt nước Ngô đưa nước Việt lên ngôi bá)
(bèn vào ở ẩn chốn rừng sâu mây phủ học phép tu tiên)
(thường cưỡi loan, cưỡi hạc bay chơi vùng Ba Thục)
(từng lướt thuyền trên sóng nước Ngũ Hồ)
(nước suối hai bên chảy róc rách dưới trăng khuya)
(khói biếc tỏa lãng đãng trên các đỉnh núi mùa thu yên tĩnh)
(đã có chiếc thuyền con để đi hay về tùy hứng)
(nhưng lúc nào cũng nhìn về trời đông mà nhớ quê cũ)
Ghi chú: Hồng Đô Quán là miếu thờ Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, mưu sĩ đã giúp
Việt vương Câu Tiễn diệt được nước Ngô, rồi ẩn thân chu du nay Ngũ Hồ, mai Ba Thục…
Quán Hồng Đô
Diệt Ngô,
giúp Việt dựng cơ đồ
Rừng mây ẩn lánh tôn thờ đạo tiên
Theo loan, hạc dạo miền Tam Thục
Nơi Ngũ Hồ thuyền vượt trùng khơi
Bên khe ánh nguyệt sáng ngời
Núi đồi biêng biếc một trời khói thu
Lênh đênh ngày tháng vân du
Phương đông trông vọng xa mờ trời quê
SongNguyễn HànTú
題 昔 所 見 處
去 年 金 日 此 門 中
人 面 桃 花 相 映 紅
人 面 不 知 何 處 去
桃 花 依 舊 笑 東 風
崔 護
Đề Tích Sở Kiến Xứ
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đài hoa y cựu tiếu đông phong
Thôi Hộ
Đề Tích Sở Kiến Xứ (viết về nơi đã trông thấy năm trước)
(năm ngoái cũng ngày này trong khuôn cửa này)
(ta đã thấy má nàng đang cùng hoa đào đua thắm)
(nhưng nay không biết nàng đi dâu vắng rồi)
(chỉ còn hoa đào vẫn cười cợt gió đông thôi)
Nhớ Người
Chốn này năm trước còn đây
Má hồng ai thắm làm say ánh đào
Người đi biền biệt phương nào
Giờ nơi đây chỉ hoa chào gió đông
SongNguyễn HànTú
題 仙 游 館
仙 台 初 見 五 城 樓
風 物 凄 清 宿 雨 收
山 色 遙 連 秦 樹 晚
砧 聲 近 報 漢 宮 秋
疏 松 影 落 空 壇 靜
細 草 春 香 小 洞 幽
何 用 別 尋 方 外 去
人 間 亦 自 有 丹 邱
韓 翃
Đề Tiên Du Quán
Tiên đài sơ kiến Ngũ Thành lâu
Phong vật thê thanh túc vũ thâu
Sơn sắc dao liên Tần thụ vãn
Châm thanh cận báo Hán cung thu
Sơ tùng ảnh lạc không đàn tĩnh
Tế thảo xuân hương tiểu động u
Hà dụng biệt tầm phương ngoại khứ
Nhân gian diệc tự hữu Đan Khâu
Hàn Hoằng
(viết về quán Tiên Du)
(từ lầu cao thành Ngũ ta thấy lần đầu đài tiên)
(sau cơn mưa dài, cảnh vật vốn quạnh quẽ như tươi sáng hơn)
(xa xa, sắc núi về chiều hòa trong đám cây đất Tần)
(gần ngay đây, tiếng chày giặt áo báo hiệu thu về trong cung Hán)
(bóng những cây thông rải rác bên đàn tràng hoang vắng yên tĩnh)
(lớp cỏ mịn đưa hương xuân vào tận hang nhỏ u tịch)
(nào phải đi lên trời mới thấy sự việc đặc biệt)
(ngay tại cõi thế gian này đã có cảnh thần tiên rồi)
Ghi chú: Ngũ Thành, tên thành ở tây nam huyện Hưu Ninh, tỉnh An Huy ngày nay.
Đan Khâu, chỉ xứ thần tiên đời cổ, ở ngoài biển, lúc nào cũng là ban ngày.
Quán Tiên Du
Lần đầu thấy đài tiên nơi lầu Ngũ
Cảnh thanh tao, tươi mát lúc sau mưa
Núi hòa cây ranh Tần bóng chiều mờ
Vang chày giặt, trời thu về cung Hán
Thông im lặng in hình trên đàn vắng
Động âm u cỏ mịn tỏa hương thơm
Đâu cần tìm nơi cõi khác đẹp hơn
Đồi tiên sẵn có đây trong trần thế
SongNguyễn HànTú
題 長 安 主 人 壁
世 人 結 交 須 黃 金
黃 金 不 多 交 不 深
縱 然 令 諾 暫 相 許
終 是 悠 悠 行 路 心
張 謂
Đề Trường An Chủ Nhân Bích
Thế nhân kết giao tu hoàng kim
Hoàng kim bất đa giao bất thâm
Túng nhiên linh nặc tạm tương hứa
Chung thị du du hành lộ tâm
Trương Vị
(Đề Vách Nhà Chủ Ở Trường An)
(người đời qua lại với nhau chỉ vì tiền bạc)
(tiền bạc không nhiều thì giao tình không thắm thiết)
(thảng hoặc có thốt lời tạm hứa với nhau)
(cuối cùng thì cũng chĩ như lời hứa của kẻ qua dường)
Ghi chú: Trường An xưa là kinh đô từ đời Hán đến đời Đường. Di tích nay là thành phố
Tây An nằm trong lãnh địa tỉnh Thiễm Tây, là một điểm du lịch thu hút rất nhiều du khách khắp thế giới vì vừa khai quật được ngôi mộ vĩ đại chôn nguyên một đội quân bách chiến bách thắng (đông cả ngàn, mặc áo giáp, vũ khí và đủ ngựa xe, bằng đất nung…) của Tần Thủy Hoàng.
Đề Vách Nhà Chủ Ở Trường An
Bài 1
Người đời kết bạn cốt tiền thôi
Lợi ít thì tình chả thắm tươi
Đã lỡ hẹn thì lờ…giả tảng
Rốt cuộc cũng phường miệng đãi bôi
Bài 2
Ở đời có lợi mới thân quen
Không xu dính túi bạn xa liền
Trót hẹn tảng lờ tuồng chẳng nhớ
Qua đường hời hợt lộ tim đen
SongNguyễn HànTú
題 張 氏 隱 居
春 山 無 伴 獨 相 求
伐 木 丁 丁 山 更 幽
澗 道 餘 寒 歷 永 雪
石 門 斜 日 到 林 邱
不 貪 夜 識 金 銀 氣
遠 害 朝 看 麋 鹿 遊
乘 興 杳 然 迷 出 處
對 君 疑 是 泛 虛 舟
杜 甫
Đề Trưong Thị Ẩn Cư
Xuân sơn vô bạn độc tưong cầu
Phạt mộc đinh đinh sơn cánh u
Giản đạo dư hàn lịch vĩnh tuyết
Thạch môn tà nhật đáo lâm khâu
Bất tham dạ thức kim ngân khí
Viễn hại triêu khan mi lộc du
Thừa hứng yểu nhiên mê xuất xứ
Đối quân nghi thị phiếm hư chu
Đỗ Phủ
(viết về nơi ở ẩn của người họ Trương)
(ngày xuân ta đi một mình lại thăm ông trên núi)
(tiếng chặt cây chan chát làm cảnh núi càng u tịch)
(tuyết còn đọng trên khe suối vì cơn lạnh kéo dài)
(nắng xế chiếu từ cửa đá tới gò trong rừng)
(ban đêm nghe tiếng vàng bạc mà không gợi lòng tham)
(buổi sáng nghe có hươu nai mà không muốn hại chúng)
(thích thú với vẻ mờ mịt ta quên cả lối về)
(khi gặp ông, ta cứ tưởng như đang đi trên chiếc thuyền không)
Nơi Họ Trương Ẩn Cư
Tìm đến bạn nơi núi xuân quạnh quẽ
Tiếng đốn cây chan chát vọng không trung
Khe núi lạnh tuyết phủ đầy ngày tháng
Ánh dương lan cửa đá đến gò rừng
Dạ dửng dưng nghĩ bạc vàng đêm vắng
Xem hươu nai chả phiền bận trong lòng
Mê cảnh sắc chiều quên đường trở lại
Đứng trước ông lòng trống tựa thuyền không
SongNguyễn HànTú
題 張 氏 隱 居
之 子 時 相 見
邀 人 晚 興 留
濟 潭 鱣 發 發
春 草 鹿 呦 呦
杜 酒 偏 勞 勸
張 梨 不 外 求
前 村 山 路 險
歸 醉 每 無 憂
杜 甫
Đề Trưong Thị Ẩn Cư
Chi tử thì tương kiến
Yêu nhân vãn hứng lưu
Tế đầm chiên phát phát
Xuân thảo lộc ao ao
Đỗ tửu thiên lao khuyến
Trương lê bất ngoại cầu
Tiền thôn sơn lộ hiểm
Quy túy mỗi vô ưu
Đỗ Phủ
(viết về nơi ẩn cư của người họ Trương)
(trong lúc gặp lại nhau)
(đã xế chiếu ông nổi hứng mời ta ở lại)
(trong đầm cá mè quẫy lách cách)
(hươu chạy trong đám cỏ xuân kêu í ới)
(nhà Đỗ nâng chén mời rượu)
(nhà Trương đãi trái lê vườn nhà)
(đường núi trước xóm hiểm trở)
(mỗi lần say rượu trở về nhà ta đều không sợ)
Nơi Họ Trương Ẩn Cư
Lúc ghé thăm
Bác nhã ý mời dừng chân lại
Cá nhảy vượt đầm
Hươu gậm cỏ xuân tươi
Chung rượu thơm ngon, Đỗ khách nâng mời
Lê ngọt vườn nhà, Trương gia đãi bạn
Đường núi gập ghềnh quanh co trước xóm
Say ngả say nghiêng chẳng ngại đường về
SongNguyễn HànTú
題 張 司 馬 別 墅
庭 前 樹 盡 手 中 栽
先 後 花 分 幾 番 開
巢 鳥 戀 鶵 驚 不 起
野 人 思 洒 去 還 來
自 拋 官 與 青 山 近
誰 料 身 為 白 髮 催
門 外 尋 常 行 樂 處
重 重 履 跡 在 苺 苔
李 頻
Đề Trương Tư Mã Biệt Điện
Đình tiền thụ tận thủ trung tài
Tiền hậu hoa phân kỷ phiên khai
Sài điểu luyến sồ kinh bất khởi
Dã nhân tư tửu khứ hoàn lai
Tự phao quan dữ thanh sơn cận
Thùy liệu thân vi bạch phát thôi
Môn ngoại tầm thường hành lạc xứ
Trùng trùng lý tích tại môi đài
Lý Tần
Dich nghĩa
(viết về ngôi nhà riêng của quan Tư mã họ Trương)
(tất cả các cây đằng trước nhà đều do tay ông trồng)
(hoa đằng trước và đằng sau nhà đã nở nhiều lần)
(chim trên tổ bình thản săn sóc chim mới nở)
(dân quê muốn uồng rượu cứ lui tới hoài)
(mới ngày nào bỏ quan về ở gần ngọn núi xanh này)
(ai ngờ nay đầu tóc đã bạc trắng rồi)
(ngoài cửa nơi người ta tìm tới cầu vui)
(dấu dày còn để lại lớp lớp trên rêu xanh)
Nhà Riêng Quan Tư Mã Họ Trương
Mảnh vườn vun xén một tay
Hoa thơm từng đợt tháng ngày đơm bông
Quẩn quanh chim chẳng rời vùng
Thèm mùi rượu quý gã nông ghé hoài
Từ quan, về núi xanh rồi
Chẳng dè đã trắng như vôi mái đầu
Khách quan vẫn nặng tình sâu
Dấu giày in ngập lối vào cỏ rêu
SongNguyễn HànTú
開 出 幽 居 祇 樹 林
片 石 孤 雲 窺 色 相
清 池 白 月 照 禪 心
指 揮 如 意 天 地 落
坐 臥 閑 房 春 草 深
此 外 俗 塵 都 不 染
惟 餘 玄 度 得 相 尋李 頎
Đề Tuyền Công Sơn Trì
Viễn Công độn tích Lư Sơn sầm
Khai xuất u cư Kỳ Thụ lâm
Phiến thạch cô vân khuy sắc tướng
Thanh trì bạch nguyệt chiếu thiền tâm
Chỉ huy như ý thiên hoa lạc
Tọa ngọa nhàn phòng xuân thảo thâm
Thử ngoại tục trần đô bất nhiễm
Duy dư huyền độ đắc tương tầm
Lý Kỳ
(viết về cái ao trên núi của ông Tuyền)
(Ngài Huệ Viễn ở ẩn trên triền núi Lư Sơn)
(dựng am sống lặng lẽ trong rừng Kỳ Thụ)
(Ngài quán thấy sắc tướng trong phiến đá và cụm mây)
(ánh trăng bạc chiếu trên ao trong là hình ảnh tâm thiền)
(Ngài làm cho hoa trời rơi rụng theo ý muốn)
(Ngài ngồi, nằm an nhiên trong phòng đầy hoa xuân)
(bụi trần không thể nhiễm tới nơi ấy)
(chỉ có phép độ nhiệm màu mới tìm được nhau mà thôi)
Ghi chú: Tuyền Công, người đương thời với tác giả Lý Kỳ
Viễn Công, tức sư Huệ Viễn, một cao tăng đắc đạo đời Tấn, tu trên núi Lư Sơn
Lư Sơn, tên núi, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây
đề: Ao Núi Của Ông Tuyền
Núi Lư Sơn Huệ Viễn xưa ở ẩn
Kiếm an nhàn rừng Kỳ Thụ lánh mình
Nở hoa tâm nhìn mây lẻ bồng bềnh
Nơi đá lạnh nằm im lìm như ngộ
Ánh trăng bạc
Mặt ao trong rực rỡ
Hoa trời rơi…ngầm theo ý cao tăng
Chốn nằm, ngồi tĩnh lặng ngập cỏ xuân
Cảnh thanh thoát không vương mùi tục lụy
Bàng bạc cõi thiên…xa rời nhân thế
SongNguyễn HànTú
聞 夜 砧
誰 家 思 婦 秋 擣 帛
月 苦 風 淒 砧 杵 悲
八 月 九 月 正 長 夜
千 聲 萬 聲 無 了 得
應 到 天 明 頭 盡 白
一 聲 添 得 一 莖 絲
白 居易
Văn Dạ Châm
Thùy gia tư phụ thu đảo bạch
Nguyệt khổ phong thê châm chử bi
Bát nguyệt cửu nguyệt chính trường dạ
Thiên thanh vạn thanh vô liễu thời
Ưng đáo thiên minh đầu tận bạc
Nhất thanh thiếm đắc nhất hành ti
Bạch Cư Dị
(nghe tiếng chày ban đêm)
(thiếu phụ nhớ chồng nhà ai đang đập chày giặt áo lụa trong đêm thu)
(trăng khổ não, gió thê lương, chày bi ai)
(tháng 8 tháng 9 đêm rất dài)
(hàng ngàn hàng vạn tiếng đập không ngớt)
(có lẽ sáng hôm sau đầu sẽ bạc hết)
(vì mỗi tiếng đập sẽ làm một sợi tóc trắng như tơ)
Đêm Nghe Tiếng Chầy
Đêm mùa thu người thương chồng giặt lụa
Tiếng chầy buồn giữa gió lạnh trăng khuya
Hai tháng thu màn đêm kéo lê thê
Ngàn vạn tiếng đập hoài không ngừng nghỉ
Chắc đến sáng đầu bạc phơ đấy nhỉ
Mỗi tiếng chầy một sợi tóc thành tơ
SongNguyễn HànTú
與 韓 紳 宿 別故 人 江 海 別
幾 度 隔 山 川
乍 見 翻 疑 夢
相 悲 各 問 年
孤 燈 寒 照 雨
深 竹 暗 浮 煙
更 有 明 朝 恨
離 杯 惜 共 傅司 空 曙
Vân Dương Quán
Dữ Hàn Thân Túc Biệt
Cố nhân giang hải biệt
Kỷ độ cách sơn xuyên
Sạ kiến phiên nghi mộng
Tương bi các vấn niên
Cô đăng hàn chiếu vũ
Thâm trúc ám phù yên
Cách hữu minh triêu hận
Ly bôi tích cộng truyền
Tư Không Thự
(qua đêm ở quán Vân Dương
[buổi sáng] giã từ Hàn Thân)
(bạn cũ chia tay nơi sông nước)
(đã lâu xa cách núi sông)
(chợt gặp gỡ [đêm nay]cứ ngỡ là trong mơ)
(cùng đau lòng lúc hỏi tuổi nhau)
(bên ngọn đèn chơ vơ chiếu vào làn mưa lạnh)
(đám trúc rậm sưong khói phủ mờ)
(sáng mai lại động lòng nữa)
(khi trao nhau chén rượu ly biệt đầy luyến tiếc)
Từ Giã Hàn Thân Ở Quán Vân Dương
Sông biển chia xa kẻ một nơi
Núi non ngăn cách biệt phương trời
Đêm nay gặp lại như trong mộng
Hỏi tuổi nhau thêm xót xa thôi
……
Ánh đèn le lói giữa đêm mưa
Bụi trúc ngậm sương khói phủ mờ
Sáng mai lòng lại thêm niềm tủi
Bịn rịn trao nhau chén giã từ
SongNguyễn HànTú
愁 人 倚 月 思 無 端
忽 聞 畫 閣 秦 箏 逸
知 是 鄰 家 趙 女 彈
曲 成 虛 憶 青 蛾 斂
調 急 遙 憐 玉 指 寒
銀 鎖 重 關 聽 未 闢
不 如 眠 去 夢 中 看徐 安 貞
Văn Lân Ga Lý Tranh
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
Hốt văn họa các Tần tranh dật
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn
Khúc thành hư ức thanh nga liễm
Điệu cấp dao lân ngọc chỉ hàn
Ngân tỏa trùng quan, thính vị tịch
Bất như miên khứ mộng trung khan
Từ An Trinh
(nghe nhà hàng xóm gảy đàn tranh)
(chòm sao bắc đẩu đã xoay ngang trời, đêm sắp tàn)
(người buồn nhìn theo trăng suy nghĩ vẫn vơ)
(bỗng nghe thấy tiếng đàn tranh đời Tần từ gác vẽ vọng ra)
(mới biết rằng cô láng giềng đất Triệu đang dạo đàn)
(bài hết tưởng tượng nét ngài [của nàng] chau lại)
(điệu mau cảm thương cho ngón tay ngọc ngà lạnh giá)
(khóa bạc mấy lần cửa chưa nghe mở)
(thôi đành đi ngủ để được thấy [nàng] trong mộng)
Tiếng Đàn Cô Hàng Xóm
Trên trời sao bắc xoay ngang
Có người đứng ngắm trăng tàn ngẩn ngơ
Chợt đâu văng vẳng âm đưa
Hẳn là cô Triệu lướt qua phím đàn
Mày chau âm dứt mơ màng
Tiếng dồn thương ngón tay nàng rung tơ
Mấy tầng khoá bạc im rơ
Thôi đành tìm đến giấc mơ gặp nàng
SongNguyễn HànTú
問 劉 十 九
綠 螘 新 醅 酒
紅 泥 小 火 爐
晚 來 天 欲 雪
能 飲 一 杯 無
白 居 易
Vấn Lưu Thập Cửu
Lục nghĩ tân phôi tửu
Hồng nê tiểu hỏa lô
Vãn lai thiên dục tuyết
Năng ẩm nhất bôi vô
Bạch Cư Dị
(hỏi Lưu Thập Cửu)
(rượu mới cất còn sủi tăm màu xanh lục)
([đang hâm trên] lò nhỏ bằng đất nung màu đỏ)
(trời đang xế chiều và tuyết sắp rơi)
(uống một chén [cho ấm lòng] được chăng ?)
Hỏi Lưu Thập Cửu
Rượu mới cất còn sủi tăm màu lục
Trên lò con đất sét đỏ hồng tươì
Chiều dần buông
Tuyết chắc sắp rơi rồi
Nào ông bạn
Làm một ly được chứ
SongNguyễn HànTú
聞 官 軍 收 河 南 河 北
劍 外 忽 傳 收 薊 北
初 聞 涕 淚 滿 衣 裳
卻 看 妻 子 愁 何 在
漫 卷 詩 書 喜 欲 狂
白 日 放 歌 須 縱 酒
青 春 作 伴 好 還 鄉
即 從 巴 峽 穿 巫 峽
便 下 襄 陽 向 洛 陽
杜 甫
Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc
Kiếm ngoại hốt truyền thu Kế Bắc
Sơ văn thế lệ mãn y thường
Khước khan thê tử sầu hà tại
Mạn quyển thi thư hỉ dục cuồng
Bạch nhật phóng ca tu túng tửu
Thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương
Tức tòng Ba Giáp xuyên Vu Giáp
Tiện há Tương Dương hướng Lạc Dương!
Đỗ Phủ
(nghe tin quan quân lấy lại Hà Nam, Hà Bắc)
(chợt nghe tin ngoài cửa Kiếm Môn, đã lấy được Kế Bắc)
(mới nghe qua lệ [mừng] đã rơi ướt cả áo)
(sắp gặp lại vợ con rồi thì còn buồn bã gì nữa)
(vội xếp sách thơ lại, mừng đến phát cuồng)
(suốt ngày hát vang, lại uống rượu nữa)
(lấy trời xuân xanh làm bạn đồng hành về quê)
(trước hết từ Ba Giáp qua Vu Giáp)
(thuận đường xuống Tương Dương rồi về Lạc Dương)
Nghe Quân Ta Lấy Lại Hà Nam, Hà Bắc
Kiếm ngoại nghe đồn thu Kế Bắc
Lòng vui nước mắt chảy ròng ròng
Vợ con sắp gặp, buồn quên hết
Gói ghém hành trang tựa cuồng ngông
Nhậu nhẹt say sưa , vui hát xướng
Xuân tình dào dạt ý hồi hương
Khởi từ Ba giáp qua Vu giáp
Vừa hết Tương Dương đến Lạc Dương
SongNguyễn HànTú
聞 說
桃 花 百 葉 不 成 春
鶴 壽 千 年 也 未 神
秦 隴 州 緣 鸚 鵡 貴
王 侯 家 為 牡 丹 貧
歌 頭 舞 遍 迴 迴 別
鬢 樣 眉 分 日 日 新
鼓 動 六 街 騎 馬 出
相 逢 總 是 學 狂 人
王 建
Văn Thuyết
Đào hoa bách diệp bất thành xuân
Hạc thọ thiên niên dã vị thần
Tần lũng châu duyên anh vũ quý
Vương hầu gia vị mẫu đơn bần
Ca đầu vũ biến hồi hồi biệt
Mấn dạng mi phân nhật nhật tân
Cổ động lục nhai kỵ mã xuất
Tương phùng tổng thị học cuồng nhân
Vương Kiến
(nghe nói)
(cây đào có trăm lá cũng chảng làm nên mùa xuân)
(chim hạc có sống ngàn tuổi cũng chưa thành thần)
(bãi Tần Lũng nhờ chim vẹt [lui tới] mà có giá)
(dinh thự vương hầu vì [trồng] mẫu đơn mà kém sang)
(tiếng ca điệu múa mỗi lúc mỗi khác nhau)
(kiểu tóc, vành mi mỗi ngày mỗi đổi mới)
(sáu ngả đường phố rộn rịp tiếng trống, [ta] cưỡi ngựa ra [xem])
(chỉ thấy toàn là bọn học đòi thói ngông cuồng)
Nghe Nói
Đào khoe trăm lá chả thành Xuân
Hạc sống ngàn năm há hoá thần
Bãi Tần vượng giá đâu nhờ vẹt
Không mẫu vườn vương chẳng ngó bần
Tiếng ca, điệu múa cũ còn đâu
Vành mi, tóc bới cũng khác nhau
Nhìn qua sáu ngả xem người ngựa
Toàn đám cuồng ngông học thói nào
SongNguyễn HànTú
晚 晴
村 晚 驚 風 度
庭 幽 過 雨 霑
夕 陽 董 細 草
江 色 照 疏 簾
書 亂 誰 能 帙
杯 乾 自 可 添
時 聞 有 餘 論
未 在 老 夫 潛
杜 甫
Vãn Tình
Thôn vãn kinh phong độ
Đình u quá vũ triêm
Tịch dương huân tế thảo
Giang sắc chiếu sơ liêm
Thư loạn thùy năng trật
Bôi can tự khả thiêm
Thời văn hữu dư luận
Vị tại lão phu tiềm
Đỗ Phủ
(buổi chiều sau cơn mưa)
(buổi chiều trong xóm gió thổi [mạnh] kinh hồn)
([rồi] sân vắng ướt đẫm nước mưa)
([rồi] nắng chiều sưởi ấm đám cỏ mịn)
(nắng phản chiếu trên mặt sông hắt vào bức rèm thưa)
(sách bừa bãi lấy ai giúp cho vào bao?)
(chén [rượu] cạn tự rót thêm)
(có lúc nghe được lời bàn tán)
(ông lão thật kỳ dị)
Chiều Tạnh
Gió ào ào thổi xóm chiều
Ngoài sân nước đọng hắt hiu lạ thường
Mịn màng cỏ sưởi ánh dương
Màn lồng ánh nước loạn cuồng rung rinh
Ai lo đống sách lềnh khênh?
Chén vừa vơi cạn tự mình rót thêm
Đôi khi nghe tiếng người gièm
Lão già thật lạ, làm nên trò gì
SongNguyễn HànTú
聞 王 昌 齡 左 遷 龍 標
楊 花 落 盡 子 規 啼
聞 道 龍 標 過 五 溪
我 寄 愁 心 與 明 月
隨 君 直 到 夜 郎 酉
李 白
Văn Vương Xương Linh Tả Thiên Long Tiêu
Dương hoa lạc tận, tử quy đề
Văn đạo Long Tiêu quá Ngũ Khê
Ngã kỳ sầu tâm dữ minh nguyệt
Tùy quân trực đáo Dạ Lang tê
Lý Bạch
(nghe tin Vương Xương Linh bị đày đi Long Tiêu)
(hoa dương đã rụng hết, chim cuốc kêu [buồn bã])
(nghe tin [ông bị đày tới] Long Tiêu qua ngả Ngũ Khê)
(tôi gửi nỗi buồn [cảm thương] lên vầng trăng sáng)
([nhờ trăng] theo dõi bóng ông tới tận phía Tây Dạ Lang)
Nghe tin Vương Xương Linh bị đày đi Long Tiêu
Cuốc kêu dương liễu rụng đầy
Bác đi Long ngả vùng trời Ngũ Khê
Tình sầu gửi ánh trăng khuya
Theo người biệt xứ nẻo về Dạ Lang
SongNguyễn HànTú
晚 春
草 木 知 春 不 久 歸
百 般 紅 紫 鬥 芳 菲
楊 花 榆 莢 無 才 思
惟 解 漫 天 作 雪 飛
韓 愈
Vãn Xuân
Thảo mộc tri xuân bất cửu quy
Bách ban hồng tử đấu phương phi
Dương hoa, du giáp vô tài tứ
Chỉ giải mạn thiên tác tuyết phi
Hàn Dũ
(cuối xuân)
(cây cỏ biết rằng xuân có trở lại cũng ở không lâu)
([nên] trăm loài hồng, tía đấu nhau hương thơm)
(hoa liễu và trái du không có khả năng tạo hương thơm)
(chỉ biết tỏa [bông gòn trắng] khắp trời như tuyết bay)
Cuối Xuân
Tiết xuân nào có bao lâu
Hoa hồng trăm loại khoe mầu tỏa hương
Liễu, du còn chút xuân vương,
Toả bay như tuyết như sương ngập trời
SongNguyễn HànTú
為 有
為 有 雲 屏 無 限 嬌
鳳 城 寒 盡 怕 春 宵
無 端 嫁 得 金 龜 婿
辜 負 香 衾 事 早 朝
李 商 隱
Vị Hữu
Vị hữu vân bình vô hạn kiều
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu
Vô đoan giá đắc kim quy tế
Cô phụ hương khâm sự tảo triều
Lý Thương Ẩn
(vì có)
(vì có được bức bình phong vẽ mây đẹp vô cùng [bên nhà chồng])
([mà khi] Kinh thành hết lạnh [nàng] lo sợ đêm xuân [ngắn])
(khi không về làm vợ ông chồng [quan lớn]mặc áo thêu rùa vàng)
([ông này thường] lìa bỏ chăn thơm [và vợ] vào chầu vua từ sáng sớm)
Vì Có Chồng Quan
Chỉ được chiếc bình phong mây diễm tuyệt
Mà kinh thành lạnh dứt, sợ đêm xuân
Duyên xui khiến làm vợ ông quan lớn
Sớm vào triều, chỉ mình với gối chăn
SongNguyễn HànTú
越 中 覽 古
越 王 句 踐 破 吳 歸
義 士 還 鄉 盡 錦 衣
宮 女 如 花 滿 春 殿
只 今 惟 有 鷓 鴣 飛
李 白
Việt Trung Lãm Cổ
Việt vương Câu Tiển phá Ngô quy
Chiến sĩ hoàn gia tận cẩm y
Cung nữ như hoa mãn xuân điện
Chỉ kim duy hữu giá cô phi
Lý Bạch
(xem cảnh cũ ở nước Việt xưa)
(vua nước Việt là Câu Tiễn diệt được nước Ngô kéo quân về)
(quan quân đều được thưởng áo gấm trở về làng)
(trên điện xuân cung nữ tụ tập tươi như hoa)
(đến nay chỉ có chim đa đa bay lượn [trong cảnh xưa])
Cảnh Cũ Nước Việt
Xưa Viêt vương lúc khải hoàn
Thưởng quân gấm vóc về làng hiển vinh
Điện xuân mỹ nữ cung nghinh
Giờ trong hoang phế mặc tình chim bay
SongNguyễn HànTú
詠 懷 古 跡 五 首 之 一
支 離 東 北 風 塵 際
漂 泊 西 南 天 地 間
三 峽 樓 臺 淹 日 月
五 溪 衣 服 共 雲 山
羯 胡 事 主 終 無 賴
詞 客 哀 時 且 未 還
庾 信 平 生 最 蕭 瑟
暮 年 詩 賦 動 江 關
杜 甫
Vịnh Hoài Cổ Tích Chi Nhất
Chi li đông bắc phong trần tế
Phiêu bạc tây nam thiên địa gian
Tam hiệp lâu đài yêm nhật nguyệt
Ngũ khê y phục cộng vân san
Yết hồ sự chủ chung vô lại
Từ khách ai thời thả vị hoàn
Dữu Tín bình sinh tối tiêu sắt
Mộ niên thi phú động giang quan
Đỗ Phủ
(5 bài vịnh “Nhớ Vết Xưa”, bài 1)
([đã] lưu lạc vùng Đông bắc đấy gió bụi)
([lại] trôi nổi trong trời đất vùng Tây nam)
([đã] ngắm cảnh lâu đài dãi dầu mưa nắng ở vùng 3 kẽm)
([lại] thấy y phục đất 5 suối thấp thoáng giữa mây và núi)
(rợ Yết và rợ Hồ thờ chúa rút cuộc không tin cậy được)
(khách thơ thăng trầm theo thời thế vẫn chưa được về quê quán)
(ông Dữu Tín cuộc đời [tuy sung túc nhưng xa quê nên] rất buồn bã)
(khi về già ông để lại thơ phú [về nhớ quê] chấn động sông, quan ải)
Ghi chú : Dữu Tín người thời Nam Bắc Triều. Ông làm quan cho nhà Lương [ở phía nam]
đi sứ Tây Ngụy [ở phía bắc] bị nhà Tây Ngụy giữ lại. Khi nhà Tây Ngụy bị nhà Bắc Chu
thôn tính, ông vẫn không được về quê quán còn được nhà Chu cho làm quan lón. Lúc này
nhà Lương trước của ông cũng đã bị nhà Trần diệt.
Năm Bài Vịnh Nhớ Vết Xưa
bài 1
Bao năm trôi nổi chốn Bắc Đông
Rồi cõi Tây Nam thật não nùng
Tam Giáp lầu đài trơ năm tháng
Ngũ Khê y phục tiệp núi rừng
Người Yết thay lòng đâu hay trước
Khách thơ quê quán vẫn muôn trùng
Dữu Tín suốt đời mang u ẩn
Về chiều thơ vằng vặc núi sông
SongNguyễn HànTú
詠 懷 古 跡 五 首 之 二
搖 落 深 知 宋 玉 悲
風 流 儒 雅 亦 吾 師
悵 望 千 秋 一 灑 淚
蕭 條 異 代 不 同 時
江 山 故 宅 空 文 藻
雲 雨 荒 臺 豈 夢 思
最 是 楚 宮 俱 泯 滅
舟 人 指 點 到 今 疑
杜 甫
Vịnh Hoài Cổ Tích Ngũ Thủ Chi Nhị
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi
Phong lưu nho nhã diệc ngô sư
Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
Tiêu điều dị đại bất đồng thì
Giang san cố trạch không văn tảo
Vân vũ hoang đài khởi mộng tư
Tối thị Sở cung cầu dẫn diệt
Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi
Đỗ Phủ
Ghi Chú: Tống Ngọc người nước Sở cuối thời Chiến Quốc là tác giả nhiều thơ phú nổ tiếng
(5 bài vịnh “Nhớ Dấu Tích Xưa” bài 2)
(trong cảnh lay rụng[ho lá] mới thấy rõ nỗi buồn Tống Ngọc)
([dáng vẻ] phong lưu nho nhã đáng là bậc thầy của tôi)
(nhìn về nỗi buốn ngàn năm trước, nay vẫn dưng lệ)
(xưa và nay dẫu khác thời, nhưng cũng đều xơ xác)
(nhà cũ chỉ còn văn chương với núi sông)
( chuyện mây mưa nơi đài hoang chỉ là mộng mơ sao ?
(cuối cùng thì cung đìện nước Sở đã tan nát hết)
(hôm nay dù người lái đò đã chỉ dẫn ta vẫn còn hoài nghi)
Năm Bài Vịnh Nhớ Dấu Tích Xưa
bài 2
Lá lay động khơi nỗi buồn TốngNgọc
Bậc tôn sư vẻ nho nhã, phong lưu
Chuyện ngàn năm, sao ta vẫn đăm chiêu
Thời gian khác nhưng nỗi sầu nào khác
Theo núi sông, còn văn chương trước tác
Mưa gió phũ phàng đài cũ mơ thôi
Lầu Sở xưa giờ hoang phế tả tơi
Theo người chỉ … lòng hoài nghi ngơ ngẩn
SongNguyễn HànTú
詠 懷 古 跡 五 首 之 三
群 山 萬 壑 赴 荊 門
生 長 明 妃 尚 有 村
一 去 紫 臺 連 朔 漠
獨 留 青 塚 向 黃 昏
畫 圖 省 識 春 風 面
環 珮 空 歸 月 下 魂
千 載 琵 琶 作 胡 語
分 明 怨 恨 曲 中 論
杜 甫
Vịnh Hoài Cổ Tích Ngũ Thủ Chi Tam
Quần sơn vạn hác phó Kinh môn
Sinh trưởng Minh phi thượng hữu thôn
Nhất khứ tử đài liên sóc mạc
Độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn
Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện
Hoàn bội không qui nguyệt dạ hồn
Thiên tải tỳ bà tác hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung luân
Đỗ Phủ
(5 bài vịnh Nhớ Dấu Vết Xưa bài 3)
([khí thiêng] nhiều núi và nhiều hồ tụ tại Kinh môn )
([trong đó] làng sinh ra Minh phi [Chiêu Quân] vẫn còn đó)
(một lần[nàng] từ Tử Đài [cung Hán] đi vào miền sa mạc [Hung nô])
(chỉ còn để lại ngôi mộ cỏ xanh chơ vơ dưới nắng chều)
(xem tranh, như thấy mặt nàng ẩn hiện trong gió xuân)
([và cảm được] hồn nàng đeo vàng ngọc hiện về dưới ánh trăng)
(khúc nhạc cho đàn tì bà [nàng] soạn bằng tiếng Hồ ngàn năm vẫn tồn tại)
(trong đó ghi đậm nỗi oán hận {của vật bị hi sinh]}
Nhớ Dấu Xưa
bài 3
Núi khe quần tụ Kinh môn
Làng xưa dấu cũ vẫn còn chẳng phai
Tới hoang vu, biệt Tử Đài
Mộ xanh một nấm bi ai trong chiều
Ngắm tranh … vẫn nét yêu kiều
Kìa … hồn tiên tử mỹ miều dưới trăng
Khúc đàn xưa… khối tình nàng
Mãi còn đâm nỗi bẽ bàng kiếp sinh
SongNguyễn HànTú
詠 懷 古 跡 五 首 之 四
蜀 主 征 吳 幸 三 峽
崩 年 亦 在 永 安 宮
翠 華 想 像 空 山 裡
玉 殿 虛 無 野 寺 中
古 廟 杉 松 巢 水 鶴
歲 時 伏 臘 走 村 翁
武 侯 祠 屋 常 鄰 近
一 體 君 臣 祭 祀 同
杜 甫
Vịnh HoàiCổ Tích Ngũ Thủ Chi Tứ
Thục chủ chinh Ngô hạnh Tam Giáp
Băng niên, diệc tại Vĩnh An cung
Thúy hoa tưởng tượng không sơn lý
Ngọc điện hư vô dã tự trung
Cổ miếu sam tùng sào thủy hạc
Tuế thời phục lạp tẩu thôn ông
Vũ Hầu từ ốc thường lân cận
Nhất thể quân thần tế tự đồng
Đỗ Phủ
(5 bài vịnh Nhớ Vết Xưa, bài 4)
(vua Thục đánh Ngô kéo quân tới Tam Giáp)
(mất tại cung Vĩnh An cùng năm đó)
(cờ Thúy hoa [của ông] tưởng như còn bay trong núi vắng)
(đìện ngọc nay trống không trong ngôi chùa vùng quê)
(hạc nước làm tổ trên các cây thông quanh miếu cổ)
(giỗ chạp hàng năm có các bô lão trong làng lo toan)
(đền thờ Vũ hầu [Khổng Minh] cũng gần ngay đó)
(vua tôi đều được hưởng cúng tế như nhau)
Năm Bài Vịnh Nhớ Dấu Tích Xưa
bài 4
Đối Ngô giữa chốn Giáp biên
Thục Vương cung Vĩnh bỗng nhiên qua đời
Hiệu kỳ phảng phất bên đồi
Đền đài đổ nát nằm phơi giữa đồng
Hạc làm tổ tuốt ngọn tùng
Hàng năm dân vẫn tỏ lòng xót thương
Vũ Hầu mộ cũng gần vương
Vua tôi cùng hưởng khói hương một lần
SongNguyễn HànTú
詠 懷 古 跡 五 首 之 五
諸 葛 大 名 垂 宇 宙
宗 臣 遺 像 肅 清 高
三 分 割 據 紆 籌 策
萬 古 雲 霄 一 羽 毛
伯 仲 之 間 見 伊 呂
指 揮 若 定 失 蕭 曹
運 移 漢 祚 終 難 復
志 決 身 殲 軍 務 勞
杜 甫
Vịnh Hoài Cổ Tích Ngũ Thủ Chi Ngũ
Gia Cát đại danh thùy vũ trụ
Tông thần di tượng túc thanh cao
Tam phân cát cứ vu trù sách
Vạn cổ vân tiêu nhất vũ mao
Bá trọng chi gian kiến Y Lã
Chỉ huy nhược định thất Tiêu Tào
Vận di Hán tộ chung nan phục
Chí quyết thân thiêm quân vụ lao
Đỗ Phủ
(5 bài vịnh “Nhớ Vết Xưa”, bài 5)
(tiếng tăm lớn của Gia Cát [Lượng] bao trùm cả trời đất)
(tượng thờ bậc công thần thật nghiêm túc và thanh cao)
(việc chia ba thiên hạ [ông] đã có kế sách trù liệu trước)
([hình ảnh quân sư với] chiếc quạt lông mãi mãi trên từng mây cao)
(về sách lược so với Y [Doãn] và Lã [Thượng] ngang bằng)
([nhưng] về đìều quân khiển tướng thì hơn hẳn Tiêu [Hà] và Tào [Tham])
(thời vận đã đổi thay, cơ đồ nhà Hán kết cuộc khó mà khôi phục)
(nhưng chí [ông] đã quyết nên [ông] phải gánh vác việc quân nhọc nhằn)
Năm Bài Vịnh “Nhớ Vết Xưa”
bài 5
Tài Gia Cát đã vang danh muôn thuở
Bức tượng ngài dáng tao nhã, uy nghi
Thế tam phân được rành rẽ vạch chia
Phe phẩy quạt giữa từng trời sáng toả
Việc phò tá cũng sánh ngang Y Lã
Thế điều quân xem hơn hẳn Tiêu Tào
Trời định rồi đâu phải dễ đổi sao
Chí đã quyết việc quân đành gánh vác
SongNguyễn HànTú
詠 史
尚 有 綈 袍 贈
應 憐 范 叔 寒
不 知 天 下 士
猶 作 布 衣 看
高 適
Vịnh Sử
Thượng hữu đề bào tặng
Ưng lân Phạm thúc hàn
Bất tri thiên hạ sĩ
Do tác bố y khan
Cao Thích
(vịnh việc trong lịch sử)
([Tu Giả] đem áo lụa dày tặng [người cũ])
(hẳn vì thương chú Phạm [Thư] đang chịu cảnh rét mướt)
(nào dè có kẻ sĩ dưới gầm trời này)
([vinh hiển rồi] vẫn làm như mình là dân áo vải đói rét)
Ghi chú: Sử sách thời Chiến Quốc ghi: Tu Giả làm quan lớn nước Ngụy, Phạm Thư
là thuộc hạ. Sau Phạm Thư sang Tần, cải danh là Trương Lộc, làm tới Tướng
Quốc. Tần khởi binh đánh Hàn và Ngụy. Vua Ngụy sai Tu Già đi sứ cầu hòa.
Phạm Thư ăn mặc rách dưới đứng hầu Tu Giả khi Tu tới Tần. Tu thương hại
Phạm là cố nhân, đem áo lụa tặng. Kịp khi vào chầu Tu mới biết Phạm là Tướng
quốc nước Tần. Phạm tha tội chết, vì nghĩ Tu còn có chút tình với người cũ.
Vịnh Sử
Quan đem áo lụa tặng người
Mặc mùa đông giá cho vơi lạnh lùng
Nào ngờ … sắc ấy là không
Áo manh tơi tả đo lòng người xưa
SongNguyễn HànTú
詠 武 侯
先 生 晦 跡 臥 山 林
三 顧 那 逢 賢 主 尋
魚 到 南 陽 方 得 水
龍 飛 天 外 便 為 霖
託 孤 既 盡 慇 懃 禮
報 國 還 傾 忠 義 心
前 後 出 師 遺 表 在
令 人 一 覽 淭 沾 襟
白 居 易
Vịnh Vũ Hầu
Tiên sinh hối tích ngọa sơn lâm
Tam cố na phùng hiền chủ tầm
Ngư đáo Nam Dương phương đắc thủy
Long phi thiên ngoại tiện vi lâm
Thác cô ký tận ân cần lễ
Báo quốc hoàn khuynh trung nghĩa tâm
Tiền hậu xuất sư di biểu tại
Linh nhân nhất lãm lệ triêm khâm
Bạch Cư Dị
(bài vịnh về Vũ [Hương] Hầu [tức Khổng Minh])
(ông che dấu tung tích, nằm khểnh trong rừng núi)
(chúa hiền đã tìm ông ba lần mới được gặp)
(cá tới Nam Dương [mới] gặp nước[ rộng])
(rồng bay trong trời rộng [dễ dàng] làm mưa)
([vua] gửi con côi đã năn nỉ hết cách)
([bầy tôi] giúp nước rốc lòng trung nghĩa)
(biểu [dâng hậu chủ] xuất quân trước sau còn để lại)
(khiến ai đọc cũng rơi lệ ướt vạt áo trước)
Vịnh Vũ Hầu
Đã nằm khểnh dấu mình trong rừng núi
Mà ba lần đấng hiền chủ khoản mời
Cá Nam Dương gặp triều cả ngoài khơi
Rồng ngang dọc giữa không trung vẩy nước
Gởi con mọn, vua ân cần sau trước,
Người dốc lòng trung nghĩa trả hồng ân
Vẫn còn đây chứng bài biểu ra quân
Mỗi lần đọc người đời còn rơi lệ
SongNguyễn HànTú
詠 武 侯
撥 亂 扶 危 主
慇 懃 受 托 孤
英 才 過 管 樂
妙 策 勝 孫 吳
凜 凜 出 師 表
堂 堂 八 陣 圖
如 公 存 盛 德
應 嘆 古 人 無
元 稹
Vịnh Vũ Hầu
Bát loạn phù nguy chủ
Ân cần thụ thác cô
Anh tài quá Quản Nhạc
Diệu sách thắng Tôn Ngô
Lẫm lẫm “Xuất sư biểu”
Đường đường “Bát trận đồ”
Như công tồn thạnh đức
Ưng thán cổ nhân vô
Nguyên Chẩn
(bài vịnh về Vũ [Hưong] Hầu [tức Khổng Minh])
(dẹp loạn giúp chúa trong cơn nguy khốn)
(nhận lời khẩn thiết gửi gấm con côi [của chúa])
(tài giỏi hơn Quản {Trọng] và Nhạc [Nghị])
(mưu mẹo cao hơn Tôn [Vũ] và Ngô [Khởi])
([viết] biểu [dâng Hậu chủ}xin xuất quân hùng tráng)
([dựng nên] “Bát trận đồ” đồ sộ)
(để lại cho đời công trạng lớn như ông)
(than ôi từ xưa [tới nay] không có ai [làm được])
Vịnh Vũ Hầu
Cơn nguy biến giúp vua dẹp loạn
Đem lòng son săn sóc hài nhi
Tài vượt hơn Quản Trọng, Nhạc Nghi
Mưu cao thẳm trội xa Vũ, Khởi
Biểu ra quân âm nghe vang dội
Bát Trận Đồ lừng tiếng cao minh
Công muôn đời vời vợi trời xanh
Từ kim cổ nào ai sánh được
SongNguyễn HànTú
望 薊 門
燕 臺 一 去 客 心 驚
笳 鼓 喧 喧 漢 將 營
萬 里 寒 光 生 積 雪
三 邊 署 色 動 危 旌
沙 場 烽 火 侵 胡 月
海 畔 雲 山 擁 薊 城
少 小 雖 非 投 筆 吏
論 功 還 欲 請 長 纓
祖 詠
Vọng Kế Môn
Yên đài nhất khứ khách tâm kinh
Già cổ huyên huyên Hán tướng dinh
Vạn lý hàn quang sinh tích tuyết
Tam biên thự sắc động nguy kỳ
Sa trường phong hỏa xâm Hồ nguyệt
Hải bạn vân sơn ủng Kế thành
Thiếu tiểu tuy phi đầu bút lại
Luận công hoàn dục thỉnh trường anh
Tỏ Vịnh
(vời trông [quan ải] Kế Môn)
(đài cao của đất Yên này, ai đến 1 lần cũng kinh hồn)
(doanh trại của tướng nhà Hán lúc nào trống kèn cũng ầm ầm)
(tuyết tích lũy hắt lên ánh lạnh lẽo kéo dài cả vạn dặm)
(ánh bình minh từ ba phía chiếu vào lá cờ kéo cao đang bay)
(khói lửa báo nguy trên đài cao làm lu mờ trăng bên đất Hồ)
(phía bờ biển có núi phủ mây che chở cho thành Kế)
(còn nhỏ tuổi tuy chưa đúng là kẻ bỏ văn theo nghiệp võ)
(ta cũng muốn đội mũ có dải dài ra trận lập công)
Trông Ải Kế Môn
Đài Yên như cướp hồn người
Trống ầm ầm gióng đinh tai lạnh lùng
Tuyết băng hàn khí muôn trùng
Nắng bình minh tụ ánh hồng cờ bay
Đài cao khói ngập trời mây
Kế thành núi biển bao vây trập trùng
Bút nghiên chưa vẹn … khí hùng
Cũng mong mũ áo lập công dưới cờ
SongNguyễn HànTú
望 廬 山 瀑 布
日 照 香 爐 生 紫 煙
遙 看 瀑 布 挂 前 川
飛 流 直 下 三 千 尺
疑 是 銀 河 落 九 天
李 白
Vọng Lư Sơn Bộc Bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch
(ngắm từ xa thác nước đổ như tấm vải của núi Lư)
(mặt trời chiếu vào [bụi nước của thác] núi Hương Lô làm thành làn khói tím)
(từ xa nhìn, thấy con thác như một tấm vải [trắng]treo ngược trên con sông trước mắt)
(thác chảy như bay lao xuống từ ba ngàn thước)
(tưởng như sông Ngân Hà chảy lạc từ cõi trời xuống)
Ngắm Thác Núi Lư
Nắng xuyên khói tím mơ màng
Nhìn từ xa thác núi Hương lạ lùng
Ba ngàn thước giữa không trung
Ngỡ dòng nước đổ tự sông Ngân Hà
SongNguyễn HànTú
望 月 懷 遠
海 上 生 明 月
天 涯 共 此 時
情 人 怨 遙 夜
竟 夕 起 相 思
滅 燭 憐 光 滿
披 衣 覺 露 滋
不 堪 盈 手 贈
還 寢 夢 佳 期
張 九 齡
Vọng Nguyệt Hoài Viễn
Hải thượng sinh minh nguyệt
Thiên nhai cộng thử thì
Tình nhân oán dao dạ
Cánh tịch khởi tương tư
Diệt chúc lân quang mãn
Phi y giác lộ tư
Bất kham doanh thủ tặng
Hoàn tẩm mộng giai kỳ
Trương Cửu Linh
(ngắm trăng nhớ [người thân ở] xa)
(trăng sáng nhô lên khỏi mặt biển)
(ở mọi góc trời hẳn cũng như ở đây, lúc này)
(người có nỗi nhớ [người thân ở xa] oán ghét đêm dài)
([vì nếu thao thức sẽ] nhớ nhau cả đêm trường)
(tắt nến đi vì yêu ánh trăng sáng)
(mặc áo vào vì nghe sương móc đã rơi nhiều)
(không thể dùng tay vốc ánh trăng gửi tặng nhau)
(đành đi ngủ để hi vọng gặp nhau trong giấc mộng).
Ngắm Trăng Nhớ Người
Trên biển vắng ánh trăng vàng lai láng
Nơi góc trời chắc hẳn cũng như đây
Nhớ thương người nên oán hận canh dài
Đêm trằn trọc
Nằm trải thềm nhung nhớ
Tắt ngọn nến
Cả bầu trời sáng tỏ
Khoác thêm áo, sương móc đã giăng đầy
Tiếc thật nhiều chẳng giữ được trong tay
Vùng ánh sáng dành tặng người xa vắng
Cố nhắm mắt may gặp nhau trong mộng
SongNguyễn HànTú
望 嶽
岱 宗 夫 如 何
齊 魯 青 未 了
造 化 鍾 神 秀
陰 陽 割 昏 曉
盪 胸 生 層 雲
決 眥 入 歸 鳥
會 當 凌 絕 頂
一 覽 眾 山 小
杜 甫
Vọng Nhạc
Ðại Tông phù như hà?
Tề Lỗ thanh vị liễu
Tạo hóa chung thần tú
Âm dương cát hôn hiểu
Ðãng hung sinh tằng vân
Quyết tí nhập quy điểu
Hội đương lăng tuyệt đính
Nhất lãm chúng sơn tiểu
Đỗ Phủ
(ngắm núi)
(núi Đại Tông như thế nào?)
([trải khắp biên giới] Tề-Lỗ chưa hết màu xanh [của núi])
(tạo hóa đã kết hợp thần bí và vẻ đẹp [cho núi])
(hai sườn bắc nam của núi phân cách rõ ràng tối và sáng)
(mây lớp lớp làm buồng phỗi và tâm hồn trong sạch hơn)
(căng mắt ra mà xem chim bay về tổ)
(nếu có dịp đuợc leo lên đỉnh cao nhất)
(sẽ thấy các núi chung quanh [ở bên dưới] thật bé nhỏ)
Ngắm núi
Hỏi rằng núi Đại ra sao
Ngăn biên Tề Lỗ một mầu biếc xanh
Vẻ hùng vĩ ẩn khí linh
Hai sườn Nam Bắc tụ thành âm dương
Khí lành giăng mắc mây vương
Tha hồ ngắm cảnh chiều buông chim về
Nếu lên tận đỉnh cao kia
Hằn trông núi khắp tứ bề cỏn con
SongNguyễn HànTú
望 夫 石
望 夫 處
江 悠 悠
化 為 石
不 回 頭
山 頭 日 日 風 和 雨
行 人 歸 來 石 應 語
王 建
Vọng Phu Thạch
Vọng phu xứ
Giang du du
Hoá vi thạch
Bất hồi đầu
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ
Hành nhân quy lai thạch ưng ngữ
Vương Kiến
(hòn Vọng phu)
(nơi [thiếu phụ] vời trông chồng
(có dòng sông chảy mênh mang)
([nàng] đã hóa thành đá)
([đăm đăm nhìn] đầu không ngoảnh lại)
(nơi đầu núi ngày ngày chịu gió và mưa)
(có lẽ người đi trở về đá mới chịu nói)
Hòn Vọng Phu
Đứng trông chồng
Nước mênh mông
Đến thành đá
Chẳng thay lòng
Gió mưa ngày tháng nơi đầu núi
Hẳn đợi người xưa mới mở lời
Hòn Vọng Phu
Kìa ai đứng ngóng trông chồng
Dãi dầu mưa nắng bên sông thẫn thờ
Hóa thành tượng đá chơ vơ
Đăm đăm nhìn chốn xa mờ vọng phu
Bao năm tháng, nặng gió mưa
Chồng còn biền biệt, đá chưa mở lời
SongNguyễn HànTú
武 侯 廟
遺 廟 丹 青 落
空 山 草 木 長
猶 聞 辭 後 主
不 復 臥 南 陽
杜 甫
Vũ Hầu Miếu
Di miếu đan thanh lạc
Không sơn thảo mộc trường
Do văn từ Hậu Chủ
Bất phục ngọa Nam dương
Đỗ Phủ
(miếu thờ quan Vũ [Hương] Hầu [tức Khổng Minh])
(miếu xưa nét vẽ xanh đỏ đã phai lạt)
(núi hoang vu cây cỏ mọc um tùm)
(còn nghe văng vẳng biểu xuất sư dâng Hậu Chủ)
([việc không thành] chẳng còn trở về Nam dương nằm khểnh nữa)
Miếu Vũ Hầu
Miều còn đó, màu vẽ xưa phai lạt
Núi chơ vơ, cỏ cây mọc xanh đầy
Biểu xuất sư còn vẳng đâu đây
Đã tan mộng về Nam Dương nằm khểnh
SongNguyễn HànTú
禹 廟
禹 廟 空 山 裏
秋 風 落 日 斜
荒 庭 垂 橘 柚
古 屋 畫 龍 蛇
雲 氣 生 虛 壁
江 深 走 白 沙
早 知 乘 四 載
疏 鑿 控 三 巴
杜 甫
Vũ Miếu
Vũ miếu không sơn lý
Thu phong lạc nhật tà
Hoang đình thùy quất dữu
Cổ ốc họa long xà
Vân khí sinh hư bích
Giang thâm tẩu bạch sa
Tảo tri thừa tứ tải
Sơ tạc khống Tam Ba
Đỗ Phủ
(miếu thờ vua Vũ nhà Hạ)
(miếu thờ vua Vũ nhà Hạ ở trong vùng núi hoang vắng)
([lúc đó] có gió thu thổi và mặt trời đang xế bóng)
(trong sân bỏ hoang có quít và bưởi nặng chĩu trên cành)
(trong các phòng ốc xưa [còn lờ mờ] hình vẽ rồng, rắn)
(mây khói luẩn quẩn bên các bức tường đổ nát)
(sông sâu chảy trong vùng cát trắng)
([vua] sớm biết [sáng chế và] dùng bốn thứ công cụ)
([để] khai thông và nạo vét sông lạch khống chế [được lụt lội] vùng Tam Ba)
Ghi chú: Ông Vũ, người thời vua Thuấn đời Thượng Cổ Trung Hoa, có công trị thủy trong suốt 20
năm giúp đất nước không bị ngập lụt, được vua Thuấn nhường ngôi cho, mở ra nhà Hạ.
Đền Thờ Vua Vũ
Đền thờ vua Vũ quạnh hiu
Gió thu thoang thoảng bóng chiều dần buông
Chĩu cành quít bưởi sân hoang
Rắn rồng đầy vết trên tường nhạt phai
Khói sương bảng lảng khắp nơi
Qua làn cát trắng nước trôi lững lờ
Dụng cụ xưa biết đâu giờ
Tam Ba yên ổn cũng nhờ khai thông
SongNguyễn HànTú
新 晴 錦 繡 文
碧 知 湖 外 草
紅 見 海 東 雲
竟 日 鶯 相 和
摩 霄 鶴 數 群
野 花 乾 更 落
風 處 急 紛 紛杜 甫
Vu Sơn Nhật Tình
Cửu vũ Vu Sơn ám
Tân tình cẩm tú vân
Bích tri hồ ngoại thảo
Hồng kiến hải đông vân
Cánh nhật oanh tương hoạ
Ma thiên hạc sổ quần
Dã hoa can cánh lạc
Phong xứ cấp phân phân
Đỗ Phủ
(cảnh núi Vu trong ngày mưa tạnh)
(mưa lâu làm cảnh núi Vu u ám)
(nay mới tạnh, cảnh đẹp như gấm thêu)
(biết chắc cỏ ngoài hồ xanh biếc)
(thấy rõ mây phía đông pha hồng)
(suốt ngày đàn chim oanh ríu rít)
(vài đàn hạc tung bay trong không gian)
(hoa đồng khô héo, cánh rơi rụng)
(bay tơi tả trong cơn gió)
Vùng Vu Sơn Ngày Tạnh Ráo
Mưa rả rích, núi Vu Sơn u ám
Qua mưa rồi trời đẹp tựa gấm thêu
Cỏ ven hồ xanh mơn mởn mỹ miều
Nền trời đỏ vùng biển Đông rực rỡ
Oanh đua hót nghe niềm vui rộng mở
Nhìn ngang trời hạc lướt gió tung mây
Khắp ngoài đồng những hoa héo rụng đầy
Bay lả tả cuốn trong trời gió lông
SongNguyễn HànTú
社 日
鵝 湖 山 下 稻 粱 肥
豚 柵 雞 栖 對 掩 扉
桑 柘 影 斜 春 社 散
家 家 扶 得 醉 人 歸
張 演
Xã Nhật
Nga Hồ sơn hạ đạo lương phì
Đôn sách kê thê đối yểm phi
Tang chá ảnh tà xuân xã tán
Gia gia phù đắc túy nhân quy
Trương Diễn
(ngày lễ hội xuân ở xã)
([người dân] dưới chân núi Nga Hồ có đầy đủ lúa và nếp)
(chuồng lợn, chuồng gà đã đóng cửa)
(bóng cây dâu và cây chá in bóng chiều tà, lễ hội xuân ở xã đã tan)
(nhà nhà dìu đỡ người say rượu trở về nhà)
Ngày Lễ Hội Xuân
Nga Hồ nếp tẻ lúa khắp nơi
Chuồng gà, máng lợn đã đóng rồi
Chá, dâu nghiêng bóng, xuân hội mãn
Ngất ngưởng chân xiêu người đỡ người
SongNguyễn HànTú