* A – Nhảm hay Không Nhảm ???

 

nth

Nếu cho rằng đây là những lời viết NHẢM thì bạn cứ tự nhiên xem như là nhảm, tuy nhiên theo thiển ý,  đây là những bài viết có nghiên cứu khá tỉ mỉ, đầy tính chất văn hoá nên tôi đem về đây để tham khảo khi cần.

nth

VỀ HAI “CÁI ẤY” VÀ “CHUYỆN ẤY”

TRONG CA DAO, TỤC NGỮ

***

images

Minh họa bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày của Hồ Xuân Hương

Mạc Thực Thái Doãn Chất là giáo viên văn, hưu trí ở huyện Diễn Châu, Nghệ An.  Ông là hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội VHNT Nghệ An. Ông viết nhiều thể loại và khá nổi tiếng với dòng thơ châm biếm. Tuy nhiên, ông cũng là người nghiên cứu về văn hóa dân gian, với cái nhìn rất tươi tắn, sâu sắc về nhiều vấn đề tưởng rất đời thường. Ông có gửi đến Chuyên san Khoa học Xã hội & Nhân văn Nghệ An (Thuộc Sở KH&CN Nghệ An) bài viết này. Xét thấy nếu đăng ở Chuyên san KHXH&NVNA e chưa thật thích hợp, chúng tôi đã đề nghị ông cho đăng lên blog Tạp hóa Faxuca. Được ông đồng tình, Tạp hóa Faxuca xin giới thiệu bài viết rất đặc sắc, nhưng cũng đầy “tế nhị” này với bạn đọc.

Không phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa hai “cái ấy” và “chuyện ấy” đã hiện hữu trong văn chương bác học và văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ. Đó là đề tài muôn thưở, là thứ “vàng ròng” (Chữ dùng của nhà thơ Trần Hữu Thung), làm cho con người vui vẻ, khỏe khoắn, ham sống, ham chiến đấu và trẻ trung hơn. Nếu không có nó thì “ mặt trời sẽ tắt”! Và cuộc đời của mỗi con người sẽ giảm phần hứng thú, ý vị.
     Trước hết nói về hai cái ấy. Thông thường thì “của ai nấy dùng”, thường đi riêng, nhưng cũng có khi C..và L..đi sóng đôi nhau như bóng với hình.
     Nó hay vì nhiều lẽ. Bắt đầu từ hai cái tên. Bắt đầu, ta  nói về C. C..là cái tên nôm, tên “cúng cơm” ngàn đời của nó. “Trâu thì lấy mũi mà dắc (dắt)/ Người thì lấy C mà lôi”. Và, “C. gãy mà bạy L troi”. Hay: “Hát ghẹo mà đẽo cổ cò/ C. anh mà gãy ba o phải đền”. Rồi đến tên phái sinh, tên tượng hình, tên ẩn dụ, tên lóng…Đó là  B.: “Nên không bay nói một lời/ Không thì choa sẽ dí b. choa đi”. Là thằng cu “Em như khế ngọt sân chùa/ Cho choa, choa không lấy,/ Bán choa, choa không mua/Nhưng vì thằng cu nhà choa hắn dại dại nên thấy của chua hắn thèm”. Là chim: “Người thì bé bằng cái kim/ Chim thì to bằng cái chày”. Là củ khoai từ: “Anh đây có củ khoai từ/ Em có cái rãnh cho anh dư lấy nòi”. Là cái gộc chè chuôm: “Ả có cái ao trưởng tộc / anh có cái gộc chè chuôm”. Là con cá tràu , khi con gái hỏi: “Tương phùng bạn với tương tri / Cá nằm dưới cỏ, cá chi rứa chàng?”. Thi bên con trai đáp: “Tương phùng bạn với tương tri/ Cá nằm dưới cỏ có khi cá tràu”. Là cái cần tăng dân số: “Anh có cái cần tăng dân số/ Ả có cái hố tăng cá nhân/ Hai bên phấn đấu chuyên cần/ Thì dân số nước sẽ tăng ào ào”. Là cái cuống đuôi: “Tình cờ gặp buổi chợ Sò / Ả khoe con mực tuộc, anh thò cái cuống đuôi”. Là cái cán dao: “ Anh H có cái cán dao/ Em mô (nào) ưng ý bỏ vào vừa ngay”. Là khúc trầm hương. Một cô gái ở thôn Hoàng Lao đến thăm chị gái lấy chồng về thôn Cự Phú, thấy một chàng trai đang cồng lưng đan rổ, bèn hát: “ Đất Hoàng Lao chữ lao là nhọc/ Đất Cự phú, chữ phú là giàu/ Em đến đây cũng muốn chị trước, em sau / Nhưng mùi trầm hương em nỏ chộ, mà chi chộ màu khói mây”’. Đã được một chàng trai Cự Phú đáp lại: “Giàu là giàu nơi hương hào dịch mục /Nhọc là nhọc nơi tú cử, trâm bào/ Khúc trầm hương anh còn để trong bao/ Em có đưa cái lò hương đi đó, để anh bỏ vào cho nó thơm”. Là cái dé: “Người bé, dé to”. Là “Đồ lề”: “Người cặp cách, đồ lề tráng hạng”.vv…
Tỷ lệ của nó so với thân chủ thì có khi thuận, có khi nghịch. Thuận thì: “Người to của nậy”. Nhưng có khi ngược lại: “Anh kia người thì nhom nhom (gầy gò, yếu ớt) / Người chôn tiểu, C. chôn hòm mà kinh !”.
    C. có một số mặt nổi trội so với các cơ phận khác. Nó rất mẫn cảm đối với phía bên kia: “Ra đường  gặp ả hồng nhan / Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người”. Nó là cái máy i on nhạy vô kể: “ Đút vô be thì nghe nóng nóng/ Đút vô móng thì nghe nôn nôn / Đút vô L. thì nghe đễ chịu”. Nó rất thích của lạ: “Cái gì không mắt, không tai/  Cổ đeo hai bị, tóc dài ngang lưng / Của nhà thấy cứ lừng khừng / Hễ thấy của lạ bừng bừng xông lên”. Hoặc: “Cái gì chỉ có một đầu / Có mồm không mắt, đeo râu xồm xoàm / Khỏe đứng thẳng, nhọc nằm  ngang/ Thất thường tính khí họ hàng không ưa/ Của lạ xài mấy cũng vừa / Của nhà thì cứ dây dưa khất lần”. Đọc qua, ai cũng biết đó là cái C..
  Kích thước, hình thù  của nó cũng mỗi người mỗi khác. Vì thế,  mới có chuyện: Ba chị đi chợ về đố nhau: “Của cánh đàn ông thế nào thì sướng?”. Chị thì nói ngắn, chị thì nói dài, chị thì nói cong. Chẳng  ai chịu ai. Cuối cùng cả ba kéo nhau đến gặp một ả có tiếng lẳng lơ, mới được “bật mí” như thế này: “Ngắn sướng ngoài, dài sướng trong / cong cong sướng chính giữa”. Vì nó sướng thế nên phiá bên kia đã “cương quyết chiến dấu” để “không cho chúng nó thoát”: “Nhịn ăn, nhịn mặc, không ai nhịn C.. cho ai”. Và C.. được đề cao trên cả sự giàu có: “Bền C. lọ,  hơn đỏ nhà lim !”
 Chuyển sang cái L. L. là tên cúng cơm ra đời trước nhất. Nhiều câu ca dao nói tới “của quí” này. “Nửa đêm thức dậy đâm xay / Khải (gãi) L. xoạc xoạc lông bay đầy nhà”. “Chiều chiều xách mủng xuống đồn/ Cậu cho bát gạo, banh L. cậu coi”. “Mẹ em cứ bảo không L./ Cái chi dưới háng như cồn cỏ may”. “Hai bà đi hái lộc mưng / Trèo lên rớt xuống đau lưng đấm L.”.vv. Tiếp đến là bướm: “ Bướm đồng động đến thì bay / Bướm nhà động đến lăn quay ra giường”. Là cái khuôn đúc tượng. Một chàng trai thấy một cô gái đẹp liền hát: “Hỡi người đi đó xinh thay / Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc cùng”. Cô gái đã trả lời rất tình tứ: “Người sao ăn nói lạ lùng / Khuôn ai nấy đúc, đúc cùng ai cho!”. Là cái ngã ba: “To đàng cấy, nậy ngã ba”. Là con mực tuộc (xem C). Là cái ao trưởng tộc (xem C).  Là cái lộ lù trong phát ngôn sau: Một cô gái dùng lối nói lái để hỏi cánh thợ đắp tượng: “Anh đi đắp phượng, đắp cù / Đố anh đắp được bốn cái lộ lù nhà em”. Liền bị một chàng trai “đập” lại: “Bốn cái lộ lù kính chú em ba / Đắp công, đắp phượng mới là tay anh”. Là:“Cây luồng mà bỏ u rê”.Bây giờ có người gọi nó là“đám ruộng ba bờ” v v
   Màu da của nó cũng thay đổi. Thông thường thì màu trắng: “Cái L. trắng bảnh, trắng banh /L. ăn C. sống có tanh không L.?”. Có khi là màu đen do môi trường lao động vất vả, nặng nhọc: “Lộ cộ có lộ tiền chôn / Cái răng mốc thếch cái L. đen thui”. Hoặc do sự cọ xát của “thớt trên”. Có một cô gái ngây thơ hỏi chị dâu khi cả hai “chị em rủ nhau tắm đầm/ Của em sao trắng, chị thâm thế này?”. Đã được cô chị dâu cho biết nguyên nhân: “Nó thâm  bởi tại  anh mày / Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm”
   Sự cân đối so với các cơ phận khác cũng mỗi người mỗi vẻ. Thông thường thì tỷ lệ thuận: “To đường cấy, nậy ngả ba”. Hoặc: “Em là con gái Phú Đa/ Con người phốp pháp, ngã ba to đùng”. Nhưng cũng có khi ngược lại: “Em là con gái chợ Cồn/ Người thì bé bé cái L. lại to !”. Rồi diện mạo của nó thế nào? Một chàng trai hỏỉ: “Cô kia, cô kỉa, cô kìa/ Người cô thế ấy, cái kia thế nào?”. Đã được phía bên kia trả lời thật tuyệt vời: “Nó xinh, nó xỉnh, nó xình/ Nó cũng như mình, nó đã có ria!.” Nó giống  mồm anh. Đau hơn hoạn !
      Nó cũng có độ sâu chết người. Bởi thế có khách qua sông đã hỏi cô lái đò: “Sông này sâu cạn thế nào /Lại đây anh thả một cơn sào hỡi em”. Đã bị đối phương giáng trả: “Sông này chỗ cạn chỗ sâu/ Sa chân thì ngập cả đầu đó anh!”. Lại có chuyện: Ba anh chàng đi học về, thấy một chị nông dân đang cấy dưới ruộng, xúc cảnh sinh tình, liền đố nhau:“Của chị ấy thế nào?”. Anh nói tròn, anh nói méo, anh nói vuông. Chẳng ai chịu ai, bèn kéo nhau vào huyện đường nhờ quan phân xử. Quan phán: “ Mai gọi thị ấy xuống đây, rồi ta phân xử cho”. Về nhà, ba anh biện ba món quà để “ hối lời” chị ta. Sáng hôm sau kéo nhau vào huyện  đường. Lập nghiêm, quan hỏi: “Thị kia ! Của mày thế nào mà để ba thầy đây đi học về đố nhau: Thầy nói tròn, thầy nói méo, thầy nói vuông?”. Được quan cho phép, chị nông dân lễ phép thưa :“Bẩm quan, cả ba thầy đều đúng ạ!” Quan ngạc nhiên. Chị ta nói tiếp: “Khi con đi, thì của con méo/ khi chồng con đến đéo, thì của con tròn/ Những khi ngồi đòn, thì của con vuông!” Có người còn vẽ hình hài nó như thế này: “Đi nhai, đứng ngậm, ngồi cười/ Vô phúc mạt đời, mọc cái răng nanh !”.
    L. có sức mạnh hơn cả ma quỷ: “ Ma hớp hồn, không bằng L. rút ruột”. Vì nó mà có kẻ mất hết cả trí tuệ: “Khoe anh lắm khéo, lắm khôn/ Qua cửa nhà L. bảy vía, còn ba !” Đến những bậc văn nhân,tài tử mà dính lấy nó thì cũng trở nên đần độn: “Văn chương chữ nghĩa bề  bề/ Thần L. ám ảnh thì mê mẩn đời !”. Nó làm cho các víp, các sếp đến mê mệt mất cả tỉnh táo: “ Cây luồng mà bỏ u rê/ các vip, các sếp đều mê cây luồng”. Kì diệu hơn,  nó có thể tái sinh sự sống. Bởi thế mới có chuyện: một ả đi cày thách đố một chàng trai: “Đưa chàng một nắm ngô rang/ Chàng đúc vô cho nó mọc, thiếp theo chàng về ngay”. Anh ta đã trả lời thật hóm hỉnh: “Nơi nào mà nắng  không khô/ Mà mưa không ướt đúc vô, mọc liền !”. Có khi nó trở thành “tiêu chuẩn”để đo sự trưởng thành của một đấng tu mi nam tử: “Làm trai cho đáng nên trai/ Mồm thơm mùi rượu, tay khai mùi L.”. Đến các bậc quân tử cũng có khi “gương mẫu” như thế này: “Tưởng là quân tử nhất ngôn/ Ai ngờ quân tử rờ L. hai tay”. Bởi thế, mới có kẻ tuyên bố: “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại/ Quân tử nói lại, là quân tử khôn/ Quân tử rờ L. là quân tử giỏi !”. Thật là hết chỗ nói ! Lắm anh chàng nổi tiếng khôn cũng bởi do biết :“Làm trai như thế mới khôn/ Ăn cơm dùng đũa, rờ L. dùng tay”. Rồi khi thiếu vắng nó, thì cả bọn  “dùng sức mạnh tập thể” cất công đi tìm: “L. lông bay bổng lên trời/ Một bầy C. lọ mang tơi đi tìm”.
Giờ nói đến chuyện ấy. Đó là chuyện “ giao lưu” của một cặp tình nhân muôn đời. Có nhiều cách để gọi sự giao lưu ấy. Thông thuờng thì gọi là đ. Khi thì gọi là “mần”, là  “ấy”: “Thấy ai ai, ta cũng ai ai/ Ai ai ấy thì ta cũng ấy” (Trần Lê Vĩ)…Nhưng phổ biến nhất vẫn  là đ. Từ xa xưa, tạo hóa đã bắt C. và L. phải làm bạn với nhau. Ai không có bạn “ thân mến” ấy là bất hạnh, là vô phúc ! Bởi thế một cô gái mới đem “của mình” ra để đố bạn trai: “ L. vàng, bẹn ngọc, đóc sơn son/ Trai nam nhi đối được, thiếp theo non về dừ”. Bạn trai của cô ta đã đối lại khá chuẩn: “Lông mun, dái trắc, C. xà cừ/ Anh đây đối được, em cho dừ hay mai ?”. Rõ ràng là cái chắc đã ngoắc lấy cái đẹp. Và cái đẹp đã kẹp lấy cái chắc! Ca dao phồn thực còn cho ta biết: “Con gái 17/ vú cảy L. sưng/ Hai mắt trập trừng/ Hình như muốn đ..” Vì thế đến tuổi dậy thì,  mới có chuyện con trai trách con gái: “Tổ cha ba đứa có L./ Không cho choa đ. để  L. mần chi?”. Liền được phía con gái trả lời: “Bay hỏi thì choa xin thưa / L. choa đang nhỏ, chưa vừa C. bay”. Có khi lấy ngoại cảnh để nói chuyện ấy: “Con cò ăn bên tê hói/ Con cói ăn bên ni sông/ O kia ơi, có phải đạo vợ chồng/ Sang bên ni ta kè coọc”. Nó còn cho biết chuyện ấy sẽ xẩy ra khi nào: “No thì L. .L., C. C./ Đói thì hục hặc chuyện ăn”. Con người khác với loài vật ở chỗ nào: “ Chó mùa thu, tru (trâu) mùa hè/ Người thì nhè bát tiết”. Nghĩa là quanh năm .
Trong ca dao chuyện ấy ít nói bóng, nói gió. Đa phần là nói thẳng. Cho nên có anh chàng nào đó đã đề nghị: “L. em tủm hủm mu rùa/ Cho anh đ. cái, đến mùa lấy khoai”. Thì bên kia nói ngay: “Khoai khoai cha tổ là khoai / Cho anh đ.. cấy đến mai lấy tiền/ Tiền tiền cha tổ là tiền/Cho anh đ.. cấy L.. liền lộ khu! ”. Có khi là chuyện “động trời” làm cho cả làng phát khiếp.: “Trai đại hạn, gái loạn canh/ Đ. chắc một bữa khiếp xanh cả làng !”.Có khi phái yếu ở trong tư thế  sẵn  sàng “chiến đấu”: “Nửa đêm nghe chuột khoét dần/ Tưởng chồng đến đ. trương gân  banh L. !”. Có người còn so sánh, đề ra ‘tiêu chí” thế nào là cha thương con, vợ thương chồng: “Cha thương con làm nhà tứ trụ/ Vợ thương chồng cho đ. suốt đêm”. Có chỗ còn nói tới tác hại của nó khi vượt ngưỡng: “Hay ăn thì béo, hay đéo thì gầy”. Trong khi văn chương bác học nêu lên cách tẩm bổ và hành lạc như thế này: “ Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh nhất trản trà/ Tam nguyệt giao nhất độ/ Lương y bất đáo gia”. Nghĩa là: “Nửa đêm ba chén rượu/ Sáng mai một chén trà/ Ba tháng  “ấy” một cái/ Thầy thuốc đếch tới nhà”. Thì tục ngữ  dân gian  nói: “Đêm bảy ngày ba, vô ra không kê”. Để giữ được nhịp độ đó, người xưa bày cho: “Thương chồng nấu cháo cu cu/ Chồng ăn chồng đ. như tru (trâu) phá ràn”. “Thương chồng thì nấu cháo lươn/ Chồng ăn chồng đ. cho trườn ra sân”. “Thương chồng thì nấu cháo gà/ Chồng ăn chồng đ. gấp ba ngày thường”. “Thương chồng thì nấu cháo gà/ chồng ăn, chồng đ. cửa nhà rung rinh”. Thật là khủng khiếp! Lại  còn bày cho cách tiến hành  thế nào để đạt đến cực điểm của sự khoái lạc: “Kéo gỗ thì cốt bỏ đà/ Đ. chắc thì cốt đàn bà nắt lên”. Ca dao còn cho biết trong chuyện ấy, thành phần nào, lứa tuổi nào là khỏe nhất: “Lính về, lính đ. ba ngày/ Bằng anh dân cày đ. trong ba tháng”. Hoặc: “Ba năm du kích cận kề/ Không bằng lính chiến hắn về một đêm”. Đúng  là: “Ăn thì đi rú, đ. thì đi lính”, hoặc “lính về thì đ., rú về thì ăn”. Rồi hình dung bề ngoài như thế nào, thì khỏe khoản ấy. Nào là: “Tóc loăn quăn, bạo ăn, bạo đ./ Tóc lụ xụ bạo đ., bạo ăn”. Nào là: “Người gầy thầy đ.”. Hoặc : “Trai tơ mà đ. gái tơ/ Hắn sướng trong bụng hơn mơ được vàng”. Còn lớp người “trên bảo dưới không nghe” thì: “Ông già mà đ. bà già/ Cũng bằng bốc trấu mà xoa giữa L.”. Và đây là cách chơi của kẻ tra (người già): “Đứt ú thì quàng lấy sừng/ Già thì dụt dặt, xin đừng bán đi”. Hoặc: “Trẻ đâm xay, già dụt dặt”. Hoặc coi đây là một phép dưỡng sinh cực kỳ quí giá: “Trẻ thì lấy con, lấy cái/ Già thì thông đái, ngon cơm”. Nhưng cũng có khi: “Càng già càng dẻo, càng dai”, như cái chuyện đã xẩy ra ở  một xã, tại huyện nọ: “Q.L lại có chuyện cười/ Dưỡng sinh, sinh dưỡng mới lòi đuôi ra/ Cụ ông mà đ. cụ bà/ Người già L., C. chưa già, vơ bay !”. Nhiều khi nó có giá trị như một liều thuốc “cải lão hoàn đồng”: “Cụ già tuổi dã tám mươi/ Nghe nói chuyện đ. trong người nóng ran”. Hay: “Lâu ngày đ. cái khỏe ra/ Mặt mày trẻ lại, cái già mất tiêu”. Bởi thế nhịn “khoản ấy” là con người trở nên tiều tụy, phờ phạc: “Nhịn ăn mười bữa chưa gầy/ Nhịn đ. một bữa mặt mày xanh xao”. Nhiều kẻ giàu có, vì chuyện ấy mà khuynh gia bại sản: “Anh kia tan cửa nát nhà/ Vì một cái đ. nên ra thế này”. Hoặc: “Tan cửa nát nhà, cũng vì ba cái  đ.!”.
   Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm. Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”: “Tuổi trẻ mất cha/ về già mất con/ Trung niên mất vợ/ Héo hon vô cùng”. Vì thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đã khổ và bức xúc như thế này: “Vợ chết mới được ba ngày/ Cái C. đã ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”. Hoặc : “Vợ chết mặt còn rầu rầu/ Cái C. đã nóng như đầu hỏa xa”. Hay: “ L. đi giữ cháu ba ngày/ Ở nhà C. nhớ  C. gầy trơ gân !”.
    Còn phía  bên kia thì sao? Cũng khổ không kém ! “Chồng chết sang ngày thứ tư/ Cục đú hắn dựng y như hòn lèn”. Hoặc: “Đàn bà chồng chết ba năm/ Được một cái đ. sướng rân tháng tròn”. Hoặc:“Chồng chết thì chưa đoạn tang/ Cái L. ngáp ngáp như mang cá mè”. Cho nên có trường hợp đã phải tìm cách “phá bỏ gông xiềng nô lệ !”. Nếu xa vợ lâu ngày quá thì: “Vợ rồi thì mặc vợ rồi/ Lâu ngày đại hạn, sang ngồi với em”. Nếu xa chồng lâu ngày quá thì: “Có chồng thì mặc có chồng/ Lâu ngày vắng vẻ, “tơ hồng” cứ xe”. Thậm chí có chị vừa ru con, vừa thông báo hoàn cảnh của mình cho láng giềng biết: “Bố cháu lâu nay không nhà/ Muốn xuân một tý la cà sang đây !”.
    Còn trường hợp sau đây thì không biết  là  “khổ” hay là “sướng”, phản đối hay không phản đối: “Hôm qua em đi hái chè/Gặp thằng phải gió hắn đè em ra/ Em  xin mà hắn không tha/ Hắn đè, hắn nhét cái xương cha hắn vào /Đêm về lòng những khát khao/Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”. Hoặc “ trực trần kỳ sự” như cái ông chết vợ này: “Ai có L. thì giữ/ C. bọ hoe Lự đi kiếm ăn !”.
      Tóm lại, hai cái ấy và chuyện ấy sớm được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Nó trở thành của “gia bảo”, “liều thuốc vạn năng” để người lao động có thêm sức lực vượt qua những “chướng ngại vật” trên đường đời. Bởi thế, mất gì thì mất, nhưng những câu ca dao , tục ngữ nói về hai cái ấy và chuyện ấy,thì dù không được bày, dạy vẫn  “thừa sức” lướt qua phong ba bão táp của thời gian; chỉ cần một lần thoảng qua cái lỗ tai là găm lại trong trí nhớ. Nó trở thành “tiềm lực” trong con người, đặc biệt là những người lao động chân tay. Ca dao xưa có câu: “Chàng làng chèo chẹt nỏ mần (chẳng làm) chi ai/ Chim cu ngẩm ngẩm, ăn hết đậu, hết khoai nhà người”. Một số người, nhìn bề ngoài có vẻ “đạo mạo, nghiêm túc”, nhưng bên trong lại là những tay “thợ giác, thợ khoan” “nổi tiếng”! Vì thế,  người xưa đã lớn tiếng tố cáo,vạch mặt: “Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình/ Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi”. Hoặc: “Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lớn tần mần như ma” đó sao? Còn ngày nay nếu chịu khó sưu tầm cũng không phải là “của hiếm”.
Trong ca dao, tục ngữ, cũ và mới, nếu “săn lùng” cho hết thì còn phờ râu trê! Người viết “chân ngắn quá, không đi cùng trái đất”, có chỗ nào chưa đủ, mong bạn đọc bổ sung cho phong phú thêm. Có chỗ nào “vui quá hóa…dại”, lỡ lời, lỡ bút, mong bạn đọc xa gần lượng thứ.  Xin thành thật cảm ơn !
 
                                                  Mạc Thực  Thái Doãn Chất

 

nth

 

CHƠI và ĐỒ CHƠI

Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà

Đầu năm dân VN ăn chơi cả tháng, thiết tưởng cũng là dịp để bàn về chuyện ăn chơi
Đề tài quá rộng lớn, bài này xin thu hẹp chỉ đề cập đến chuyện “chơi” trong ngôn ngữ.
Dĩ nhiên muốn chơi, phải có “đồ chơi”, cho nên cũng có đề cập đến “đồ chơi” nữa.

Theo B.L.Whorf cơ cấu ngôn ngữ của một dân tộc quy định kiểu dân tộc đó nhìn thực tại như thế nào. Ngôn ngữ chỉ là âm thanh hay dấu hiệu quy ước tùy tiện với ý nghĩa biểu thị tương ứng, tự bản thân chúng không có sạch bẩn. Nhưng do tập quán văn hóa xã hội của cộng đồng sử dụng, đã tạo nên những liên tưởng nơi người nghe, chúng mặc nhiên mang ý nghĩa hàm chỉ thái độ, tình cảm của người nói. Bởi thế mới có phân biệt lối nói hoặc từ ngữ “sạch – bẩn, thanh – tục”.

Người viết dẫn vào bài bằng lối nói thanh vì nếu không, sợ sẽ gây phản ứng ban đầu bất lợi, chứ thật ra nội dung chủ yếu của bài bàn về cái tục của ngôn ngữ, vì đó mới là điều lý thú. Còn nếu bàn về dâm tình một cách khách quan chính xác như y khoa và hàn lâm, dùng toàn những từ Hán văn hoặc Latin, không có khoác lác hoặc than phiền về kinh nghiệm cá nhân, nhận xét về vẻ hấp dẫn của ai đó, cũng như tức giận chửi thề…thì thật là tẻ nhạt, chẳng đáng bàn. Vd. nếu “mềm nhũn, bất lực” cho thấy cả bầu trời u ám, buồn rầu, lo lắng của chủ nhân, thì “rối loạn chức năng cương cứng” chả gây được một cảm nhận nào. Tương tự “l.” gây bao ao ước, thèm muốn, còn “âm hộ” nghe bình thản làm sao.

Mặt khác, thích nghĩ tục, nói tục, nghe tục là bản tính cố hữu của con người. Như George Moore (1888) đã chỉ ra: “A taste of dirty stories may be said to be inherent in the huma animal.” Vậy thì “chơi” và “đồ chơi” ở đây có nghĩa là “chuyện ấy” và “cái ấy”

Thật vậy, từ khi con người biết nói và viết thì liền đã có nói và viết tục rồi. Các chữ cổ và hình (cái giống nam nữ, và cả giao hoan nữa) khắc trên vách hang động cho thấy từ thuở xa xưa đã có dâm tục. Đây là một hiện thực xã hội. Kịch thơ Hy La không thiếu những đoạn công khai nói về dâm tình, với mục đích giải trí hoặc kích thích, trong các tác phẩm của Aristophanes, Horace, Ovid…. Tường nhà chứa ở Pompei khắc hoặc phù điêu đầy những cảnh giao hoan. Những tượng thần Priapus ở Hy Lạp tồng ngồng hết sức tục tĩu. Đông Phương cũng không thua kém với Kinh Thi, Nghìn Lẻ Một Đêm, Kamasutra (Dục Lạc Kinh), các tượng dương vật bằng gỗ đá tại các nước Đông Nam Á … Anh có thơ của Chaucer, Dunbar… Pháp có farce (hài kịch) thế kỷ XIV….Ý có mỹ thuật và thi ca Florence thời Phục Hưng…. VN có ca dao tục ngữ…Đâu đâu cũng thấy tình dục là một chủ đề rất phổ biến trong kịch, thơ, ca hát, mỹ thuật….Và cứ thế phát triển bành trướng tới hiện đại với các phương tiện truyền thông đa dạng (in ấn, audio, video, internet…).

Mặc dù từ đầu thế kỷ XIX đã xuất hiện thuyết tiến hóa Darwin về nguồn gốc con người là khỉ, nhưng do ảnh hưởng của tôn giáo và văn hóa nhiều thế kỷ trước, thiên hạ vẫn bám víu vào quá khứ, sợ sự thật cuộc sống trước mắt, tránh nói trực tiếp đến các hoạt động sinh lý cơ bản (ỉa, đái, làm tình…) cũng như các cơ quan liên hệ, vì chúng nhắc nhở con người cũng chỉ là một loài động vật, không phải thần thánh. Thành thử con người đã tìm cách nói quanh co, không thành thật để diễn tả cáí giống, các hoạt động làm tình, bài tiết. Nói dối là điều không thể thiếu được để cho cuộc sống dễ chịu hơn.

Người ta đã tránh nói tục bằng nhiều cách:

– nói trại đi: đíu, đếch, ị, ể, kít, lìn, bòi, dế, tè…
– dùng ngoại ngữ: âm hộ, dương vật, giao hợp, sít-nớp, síc-nai, nô-he…
– viết tắt: C, L, con xê, cái lờ, ĐM ….
– nói trừu tượng hoặc phiếm định: nó, ấy, cái ấy, chuyện ấy…
– nói lái: nắng cực, đá bèo, lộn lèo…
– dùng uyển ngữ: vưu vật, mây mưa, trăng hoa…
– nói gián tiếp, bóng gió, xa gần: chỗ kín, của quý, chăn gối…
– nói giảm thiểu, tỉnh lược:  lỗ, cọc, ngủ, biết, có gì, ăn nằm, làm bạn…
– nói dài dòng (tránh 1 âm tiết, đặc tình của từ tục): thám hiểm Ngọc
Long Cung…
– dùng điển cố: cõi Bồng Lai, Cực Lạc, Thiên Thai, đỉnh Vu Sơn..

Thật ra mấy cách chót nói trên trộn lẫn với nhau rất khó phân biệt rạch ròi; và cũng còn rất nhiều cách tương tự không thể kể hết, vì trí tưởng tượng của dân gian thì phong phú vô cùng. Vd. bướm, lá, hoa, nghêu, sò, trai, hến, chim, cò, kiếm, dựng cột buồm, may tay, may máy, vầy duyên loan phụng, vác cầy qua núi, kim kê áp noãn…Tùy theo muốn diễn tả thi vị, hài hước,hay thông tục người ta có thể ví von, so sánh, lửng lơ, úp mở…đủcách, đủ kiểu.. Việt ngữ chưa ai thống kê, nhưng English có trung bình vài trămcách nói thay cho mỗi chữ cock, cunt, fuck.

Tuy nhiên, những từ cấm kỵ có một hấp lực đặc biệt, đó là tính sơ khai. Chúng ít bị ảnh hưởng của tiến hóa, giữ được nhiều sức mạnh nguyên thủy. Chúng nhiều tính biểu thị cụ thể, rất ít tính trừu tượng của ngôn ngữ. Chúng tự hiện diện như là phỏng tạo của hành động  hơn là lối nói của ngôn ngữ. Chúng rất sát với những thôi thúc, thèm khát là bản năng cội nguồn của con người. Thảo nàongười ta thích nói tục, nghe tục, chửi tục, đố tục, đối tục…nhận thấy trong ca dao,tục ngữ, tiếu lâm tục, thơ văn của văn nhân.

Mảng nói tục lớn nhất là ca dao tục ngữ dân gian, vì không có tên tác giả, nên aicũng có thể tùy hứng, tùy khả năng, phóng tâm đóng góp mà không sợ bị nhận diện. Tha hồ khêu gợi, kích thích, tạo hình ảnh sống động để quyến rũ, gây cho người đối thoại có cùng một hứng thú như mình. Kiểu thơ Bút Tre (ngắt chữ câu thơ trên đem xuống câu dưới để bién đổi nghĩa) là một đóng góp hiện đại vào kho tàng văn học dân gian.

Mấy em mặc váy đánh cầu
Lông, bay phấp phời trên đầu các anh.

Hình thức tổ chức xã hội mọi thời, mọi nơi thường được điều hành qua kiểm soát tình dục cho nên tính dục là đề tài nổi bật, và ngôn ngữ tục rất phổ biến, vì có thể dùng để phản kháng xã hội, giai cấp thống trị, chống lại các giá trị, và có khi còn để lăng nhục, nguyền rủa qua chửi thề tục tĩu (thường dùng bộ phận cơ thể hoặc súc vật để ví von). Vd. thằng c. luộc, thằng mặt l., thằng bú c., thằng ăn cứt, con mặt mo, con đĩ ngựa… mà English thường có tương đương; thằng chó đẻ (son of bitch) đồ con hoang (bastard) đồ chó cái (bitch), prick, cunt, ass(hole)…

Có nhà tâm lý cho rằng nói tục là thủ dâm bằng lời. Những tưởng tượng phóng túng
về dâm tình thuở thiếu thời bị dồn nén, nay trưởng thành , có thể được giải tỏa, bộc lộ
qua nói tục. Người khác coi nói tục là mặt nạ của sợ hãi trong tiềm thức. Do phức tạp của tâm lý con người, nói tục mà không biết rằngchính là để che dấu một hãi sợ nào đấy, và cứ tưởng là được tự do ăn nói, trả thù xã hội thượng lưu. Nói tục cho phép giải tỏa tâm lý những giận dữ, thất vọng, dục vọng, phản kháng, lo âu….được dùng để tự vệ, phê bình, phản kháng, tấn công, trừng phạt cũng như kích thích, quyến rũ…

Nói tục là cấm kỵ, là đại tác phẩm của vô danh, cho nên trước đâykhông được ghi chép, mà thường là truyền khẩu. Ngày nay do nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu, nhất là với phương tiện internet phổ biến, đã có những sưu tầm nhất định. Đáng kể là Mạc Thực Thái Doãn Chất, trong bài online “Cái Ây và Chuyện Ấy trong Ca Dao Tục Ngữ” đã thu thập khá nhiều, đủ dùng làm ví dụ dẫn chứng cho phần về ca dao tục ngữ của bài này; cho nên người viết đã không đưa thêm những ví dụ mình sưu tầm được. Đã hẳn tựa bài cho thấy ông chú trọng đến ca dao tục ngữ, và hầu như không đề cập thơ văn tục của văn thi sĩ

Thật ra văn thi sĩ cũng có làm văn thơ tục, nhưng số này rất ít, vì chắc là ngại dị nghị của xã hội, không được tự do như tác giả vô danh của ca dao tục ngữ. Trừ Hồ Xuân Hương có một số bài thơ tục và câu đối, còn là chỉ thấy lưu lại rất ít thơvăn tục của các vị khác (vd. Trạng Quỳnh, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Nghè Tân, Phan Bội Châu,Tú Mỡ, Bùi Giáng…). mà phần lớn là câu đối và nói lái. Với họ nhiều phần đây là một kiểu chơi chữ phục vụ một mục đích xã hội. Đây có thể là dịp bộc lộ những động lực bị dồn nén, những nhu cầu bản năng thầm kín. Đồng thời muốn thử xem phản ứng của xã hội hoặc người đối thoại; cũng như khẳng định mặt bản năng nguyên sơ của cuộc sống, chống lại sức mạnh cấm đoán của chung quanh. Có thể coi đây là một trò chơi của thượng lưu ưu tú sành điệu. Dưới đây là vài vd tiêu biểu ít người biết.

Sư: Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đắc đạo.
HXH: Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người. HXH: Khi khép tối om om, quân tử tò mò nhìn chẳng thấy
Lúc mở ra toang hoác, anh hùng tấp tểnh đứng coi

Nguyễn Đôn Dư vịnh Cái Bật Lửa:

Lẹt đẹt hồi lâu lửa chẳng ra
Ngán thay cái quẹt của ông già
Con cò chắc đã mòn khu ốc
Viên đá e khi hỏng ruột gà
Đè xuống kéo lên thêm hỏng trục
Bấm qua bóp lại muốn trầy da
Dầu đà xì bậy tim đà ướt
Toan vất nhưng mà có kẻ la

Bài thơ dưới người viết được nghe đọc nhưng không rõ tác giả:

Không tai không mắt lại có đầu
Chui vào hang thẳm lún rất sâu
Bịt một cái khăn không mặc áo
Mang hai cái đãi, có chòm râu
Khi vui ngúc ngoắc làm ra vẻ
Lúc mệt ủ ê giống đứa sầu
Uống rượu ở đâu mà chẳng biết
Vừa ra khỏi cửa mửa như trâu.

Phan Minh Phụng vịnh Tờ Báo…Hại” (có nhiều nói lái)

Chỉ đáng vò đi để độn lò
Câu đây móc đó đọc buồn so
Phao đi đồn lại nhiều tin quấy
Vùi lộn chôn lầm lắm hạm to
Bịa cảnh canh khuya cô tú đợi
Bầy trò đêm tối lính đồn lo
Hãy xem đạo Dụ ghi điều luật
Đồn lại tin sai phạt mấy bò

Nhân đây xin bàn rộng sang liên hệ giữa tính dục và ngôn ngữ, vì giữa chúng
thường có liên tưởng. Người ta thích nói tục, nghe tục có lẽ do cái lưỡi cái tai hình như cho nhiều khoái cảm, nhiều liên tưởng đến cái ấy, chuyện ấy. Cái tai tượng trưng cho giống cái. Ngoáy tai cho nhiều khoái cảm, và phụ nữ dễ bị quyến rũ bởi lời đường mật. Xưa ở Ai cập, phụ nữ ngoại tình bị hình phạt cắt tai và ở VN cô dâu bị phát hiện mất trinh trước khi về nhà chồng sẽ bị bêu xấu bằng con lợn quay bị cắt tai. Tục lệ khác là đến tuổi lấy chồng con gái được xỏ dái tai để đeo bông tai, là chỉ dấu sẵn sàng làm vợ. Huyền thoại các nước đều có chuyệnnhững đấng tôn giáo, dị nhân thường sinh ra từ lỗ tai (Phật, Gargantua…). Cổ văn Latin ghi rõ “Virgo Maria, Mater Christi, quae per aurum concepisti”, Maria, mẹ Ky-tô thụ thai qua tai, cho nên được gọi là Đức Mẹ Đồng Trinh. Một truyện dân gian Jugoslav có tựa là “Usi meggu nogama” (Tai Giữa Cẳng Chân) cũng là ám chỉ cái ấy.

Cái tai cũng liên hệ với nói lái, vì nói lái, nghe lái thú hơn viết lái, đọc lái. Nói lái chủ yếu về tai nghe, viết lái nhiều khi làm lái mất tác dụng vì đọc lái bằng mắt có khi không nhìn ra lái. Nhiều người không nhận ra điều này, thành thử giải thích câu thơ HXH “Trái gió cho nên phải lộn lèo” chỉ nói lái “lộn lèo” mà bỏ qua”trái gió”. Chữ này nói lái lên nghe thành “d[gi]ái chó” rất hợp với “lẹo l.”. Tương tự, đọc bằng mắt bài thơ sau, lái giảm tác dụng; nhưng nếu nghe bằng tai, “tr” dễ trở thành “ch”, tác dụng khác hẳn.

Cô kia sao cứ trông Trời       (-> chơi chồng)
Để tôi xin nguyện làm Trời cô trông    (-> làm chồng cô chơi)
Trông Trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì       (-> chồng mà chơi lại)

Cho nên người ta bảo “nói lái, nghe lái”, chứ không bảo “viết lái, đọc lái.” Trường hợp sau dùng cho việc ghi lại, sưu tầm, nghiên cứu. Nói lái là một đặc điểm ưu việt của Việt ngũ, được dùng nhiều, nhất là trường hợp muốn che dấu cái tục. Anh Pháp cũng có nói lái nhưng chỉ có thể sử dụng hạn chế.

Vd nói lái Pháp (contrepèterie):

– très chaud (nóng quá)  -> trop cher (đắt quá)
– ne pas connaitre d’orgie sous un tel marasme
(trầm cảm như vậy, không thiết truy hoan)
ne pas connaitre d’orgasme sous un tel mari
(chồng như vậy, không thấy cực khoái)

Vd. nói lái Anh (spoonerism):

– go and take a shower (đi tắm vòi sen)
go and shake a tower (đi rung cái tháp)
– I must send the mail (tôi phải gửi thư)
I must mend the sail (tôi phải vá buồm)

Thơ Bút Tre cũng đòi hỏi phải nghe. Nếu nhìn đọc đúng chính tả, với dấu phẩy đúng chỗ, thì không còn thấy nghĩa đã biến thái thế nào. Độc giả nhìn bài thơ sau, đọc bằng mắt đúng chính tả sẽ thấy không còn là thơ BT nữa.

Anh đi công tác Pờ-Lây-
Cu, dài dằng dặc biết ngày nào ra
Còn em em vẫn ở nhà
Cửa, mình em mở kẻ ra người vào.

Cái lưỡi còn cho nhiều khoái cảm hơn tai, có nhiệm vụ nói và cung cấp khoái khẩu khi ăn. Lưỡi tượng trưng cái giống đực, ngoáy vào tai biểu thị động thái giao hoan hết sức gợi cảm, hoặc là rót váo tai lời ngon ngọt để quyến rũ, hoặc là thuyết khách như Tô Tần Trương Nghi ngày xưa làm tới Tể Tướng. Thật đúng với câu “Có lưỡi là có tất cả”, nhất là đôi với các lão niên yamaham vẫn còn thích nguyệt hoa cho dù thằng con đã yếu. Có nhà ngữ học còn cảm giác như lưỡi là cơ quan thích hợp để nói chuyện dâm tình, ví âm vòm lưỡi “l” mềm trơn dễ uốn nắn, có mặt trong hầu hết những từ (liên hệ xa gần đến dâm tình) của nhiều nước trên thế giới. Xin chỉ liệt kê từ của vài nước quen thuộc; lewd, ustful, lascivious, lecherous, lickerish, libidinous, voluptuous, fellatio, cunnilinctus
(Anh), leicho (Hy Lạp), lecken (Đức), lingere (Latin), lécher (Pháp), leccare (Ý), lamer
(Tây Ban Nha), lizat (Nga)… VN đóng góp không nhỏ về điểm này: l., (lấp) liếm (láp), luồn lách, lẹo (tẹo), lép nhép, lả lơi, lạch, lai láng, lạc thú, lụi, lọi, lèn, lang chạ, lênh láng, lông lá, lông l., lau lách, lắc lư, lặn ngụp, lăng loàn, lăng nhăng, lăn lộn, lấp, lắp (ghép), lấp ló, lặn lội, lầy nhầy, len lỏi, lèo lái, lên, lông lốc, lụi khoan….toàn từ dễ liên tưởng tới cái ấy, chuyện ấy.

Lê văn Siêu từ lâu đã chỉ ra rằng Trung Hoa có chữ tượng hình dùng hình ảnh
để minh họa ý, nhưng VN có tiếng tượng hình dùng âm thanh để diễn tả ý. Ông
liệt kê những ý tương ứng với các âm Í, U, Ơ, Ị, Ọ, ẤP, ẬP, ÓT, ÚT, ONG, OĂN,
OAY, OM, ÓP, UỐT, UA. Vd âm Í chỉ cái gì nhỏ nhít, như ti hí, bé tí, chuột chí… Không thấy ông nói gì đến âm ÍT, ỊT. Theo người viết hai âm này chỉ cái gì tắc tị, bịt kín. Vd. khin khít, tắc tịt, bịt, đen kịt, khìn khịt. Các phụ âm Đ, C, K, T toàn là những phụ âm tắc, sắc gọn, đanh, chắc nặng, đòi hỏi một sự bung ra, tạo nên các từ CẶC, COCK, CUNT nghe thật mạnh mẽ. Đ kết hợp với âm ỊT tạo nên từ ĐỊT diễn tả sống động động tác làm tình, với liên tưởng chỗ bịt bị xịt để bung ra giải tỏa căng thặng. Các từ fuck (Anh) foutre (Pháp)
không thể nào tạo được một âm hình tuyệt vời như thế. Mặt khác, có lẽ người
miến Nam hiền hòa hơn, nên ĐỤ, ĐÙ thiếu hẳn sức mạnh của ĐỊT ở miền Bắc.

Ngôn ngữ cũng có mầu sắc phái tính, thường được đặt ra bởi phái nam áp đảo phái nữ suốt chiều dài lịch sử . Cho nên các từ về tình dục phản ánh cái áp đảo này.
Với âm đ đanh sắc, các từ đ., đéo, đụ, đánh, để, đục, đẽo, đâm, đút,
đè, đụng, đồ,đì… cộng thêm các từ (hãm) hiếp, phá trinh, xỏ, xiên, thọc, thụt,
bề, chơi, làm, xơi tái…cho thấy vai trò chủ động của phái nam trong chuyện ấy. Nữ luôn luôn bị thiệt thòi, trong thế thụ động: mất trinh, thất thân, tiêu đời, bị này bị nọ…

Nói tục đôi khi không cưỡng lại được. Đó là do bệnh hội chứng (Gilles de la) Tourette. Bệnh nhân bị co giật, nói tục, chửi thề. Nguyên nhânhiện chưa xác định. Có thể do gien di truyền. Có thể do một hóa chất nào trong não tác đông. Có thể một hệ thống thần kinh kiềm hãm các nói tục bị xáo trôn khiến các tục tĩu này bung ra, không thể kiềm chế. Hiện chưa có trị liệu nào bảo đảm hiệu quả. Nhưng cũng may là bệnh phát từng cơn không phải liên tục suốt ngày.

Trên đây là những nhận xét chủ yếu về nói tục, mặc dù cũng có điểm qua vài bài thơ tục. VN chưa được giải phòng về tình dục như các nước Âu Mỹ, cho nên viết tục còn rất hạn chế, chỉ có lác đác một số ít thơ và câu đối, không có lấy một mảng dâm thư đúng nghĩa dù nhỏ nhoi, mặc dù trên net nhan nhản các đoản văn tục tĩu của các netter tài tử. Tình trạng này khiến chưa có côngtrình nghiên cứu đầy đủ về ngôn ngữ tục VN, cũng như từ điển chuyên ngành ngôn ngữ tục. Người viết phải tham khảo ngoại văn để tìm hiểu kết quả nghiên cứu của họ.

Theo các nhà nhân chủng và tâm lý, hiện tượng nói tục, viết tục là phổ biến trên thế giới. Luôn luôn có người muốn văng tục để giải tỏa tâm lý, viết tục để kích thích, khêu gợi tình dục, vì tình dục không thể thiếu trong đời sống. Tuy nhiên cần hạn chế, không thể đi quá trớn, sẽ gây phản cảm, cọ xát, thiếu lịch sự trong xã hội. Mặc dù tình dục được giải phóng nhưng các từ tục tĩu vẫn có những mức độ chấp nhận khác nhau. Những từ cấm kỵ như
cock, cunt, fuck, shit, ass.. .vẫn chưa được dùng thoải mái.

Thiết tưởng chỉ cần thay những English trên bằng c., l., đ., cứt…ta có thể áp dụng
kinh nghiệm của họ vào xã hội VN thì cũng chẳng sai!

Phạm đức Thân.

nth

 

Thơ Phạm Đức Thân
1. MAY MÁYXỏ tới xỏ lui chẳng được nào
Buồn cho tuổi hạc đã hơi cao
Kèm nhèm mắt kém trông không rõ
Lẩy bẩy tay run đút chẳng vào
Nước bọt bôi trơn cho xoắn chắc
Lỗ tròn thổi sạch để thông giao
Hồi lâu hí hoáy xuyên qua lọt
Đạp cẳng hân hoan thở cái phào2. CỦCái củ này không dám nói tên
Nhiều nơi còn cúng bái trong đền
Đầu tròn trùng trục mà quay xuống
Cuống rậm rì râu lại hướng lên
Khi nhũn nhăn mềm bao kẻ khổ
Lúc căng cương cứng lắm người điên
Chủ nhân phải hết lòng chăm sóc
Chớ để củ teo rõ thật phiền.3. TÌM ĐẠO TU  (thơ nói lái)Lại đồn cụ Bắc có cốt tu
Chán cảnh mây mù ảm đạm thu
Thiên hạ chẳng thương nhau mà sống
Chiến tranh chi để đạn bay mù
Ầm ầm đánh thức con công ngủ
Ngã lộn phèo dưới ánh điện lu
Khắp chốn cảnh ruồi bu kiến đậu
Không còn chỗ đứng tìm đạo tu(cần nói lái, cho nên có du di luật thơ Đường)
Bài thơ có 15 chỗ nói lái; nếu cố gắng và hơi gượng ép
một chút, có thể tìm thêm được 5 chỗ nữa, tức 20 cả thẩy.

 

nth

Leave a comment