* Đường thi – NTH – Tập 1

duong thi NTH

dsh-copy

dsh%20ha%20chu

 

 

杜甫 
哀江頭 

少陵野老吞生哭, 春日潛行曲江曲; 
江頭宮殿鎖千門, 細柳新蒲為誰綠? 
憶昔霓旌下南苑; 苑中景物生顏色。 
昭陽殿裡第一人, 同輦隨君侍君側。 
輦前才人帶弓箭, 白馬嚼齧黃金勒。 
翻身向天仰射雲, 一箭正墜雙飛翼。 
明眸皓齒今何在? 血污遊魂歸不得。 
清渭東流劍閣深, 去住彼此無消息。 
人生有情淚沾臆, 江水江花豈終極? 
黃昏胡騎塵滿城, 欲往城南望城北。

Ai giang đầu
***
Thiếu Lăng dã lão thôn sinh khốc
Xuân nhật tiềm hành Khúc Giang khúc
Giang đầu cung điện tỏa thiên môn
Tế liễu tân bồ vị thùy lục?
Ức tích nghê tinh há nam uyển
Uyển trung vạn vật sinh nhan sắc
Chiêu Dương điện lý đệ nhất nhân
Đồng liễn tùy quân tại quân trắc
Liễn tiền tài nhân đới cung tiễn
Bạch mã tước nghiệt hoàng kim lặc
Phiên thân hướng thiên ngưỡng xạ vân
Nhất tiếu chính trụy song phi dực
Minh mâu hạo xỉ kim hà tại?
Huyết ô du hồn quy bất đắc
Thanh Vị đông lưu, Kiếm Các thâm
Khứ trú bỉ thử vô tiêu tức
Nhân sinh hữu tình lệ triêm ức
Giang thủy giang hoa khởi chung cực
Hoàng hôn Hồ kỵ trần mãn thành
Dục vãng thành nam vọng thành bắc.
Đỗ Phủ

******* 
Niềm Đau Bên Sông
***
Nén ngăn tiếng nấc nghẹn ngào
Ngày xuân một bóng lén vào Khúc Giang
Bên sông cửa khóa lầu vàng
Liễu vì ai vẫn mơ màng thắm tươi
Nhớ xưa cờ xí khắp nơi
Hoa viên rạng rỡ một trời thắm xinh
Người đâu sắc nước khuynh thành
Bên vua kề cận xe tình chứa chan
Dẫn đường cung kiếm nữ quan
Trên lưng ngựa bạch ngàm vàng đẹp thay
Xoay mình tên vút lên mây
Nữ quan cười mỉm, lìa bầy chim rơi 
Mỹ nhân giờ đã xa rồi
Xác tiên vấy máu không nơi nương nhờ
Vị Giang, Kiêm Các hoang sơ
Kẻ đi, người ở đôi bờ cách ngăn
Nhạt nhòa mắt lệ tha nhân
Cỏ hoa ủ rũ, nước nguồn lặng trôi
Ngựa Hồ tung bụi đầy trời
Về nam, bước bắc rối bời tâm can
***
NguyễnTâmHàn

杜甫 
哀王孫 長安城頭頭白烏, 夜飛延秋門上呼; 
又向人家啄大屋, 屋底達官走避胡。 
金鞭斷折九馬死, 骨肉不待同馳驅。 
腰下寶玦青珊瑚, 問之不肯道姓名, 
但道困苦乞為奴。 
已經百日竄荊棘, 身上無有完肌膚。 
高帝子孫盡隆準, 龍種自與常人殊。 
豺狼在邑龍在野, 王孫善保千金軀。 
不敢長語臨交衢, 且為王孫立斯須。 
昨夜東風吹血腥, 東來橐駝滿舊都。 
朔方健兒好身手, 昔何勇銳今何愚? 
竊聞天子已傳位, 聖德北服南單于。 
花門剺面請雪恥, 慎勿出口他人狙。 
哀哉王孫慎勿疏, 五陵佳氣無時無。Ai vương tôn

Trường An thành đầu đầu bạch ô
Dạ phi Diên Thu môn thượng hô
Hựu hướng nhân gia trác đại ốc
Ốc để đạt quan tẩu tị Hồ
Kim tiên đoạn chiết cửu mã tử
Cốt nhục bất đắc đồng trì khu
Yêu hạ bảo quyết thanh san hô
Khả liên vương tôn khấp lộ ngung
Vấn chi bất khẳng đạo tính danh
Đãn đạo cùng khổ khất vi nô
Dĩ kinh bách nhật thoán kinh cức
Thân thượng vô hữu hoàn cơ phu
Cao Đế tử tôn tẫn long chuyết
Long chủng tự dữ thường nhân thù
Sài lang tại ấp long tại dã
Vương tôn thiện bảo thiên kim khu
Bất cảm trường ngữ lâm giao cù
Thả vị vương tôn lập tư tu
Tạc dạ đông phong xuy huyết tinh
Đông lai thác đà mãn cựu đô
Sóc phương kiện nhi hảo thân thủ,
Tích hà dũng nhuệ kim hà ngu!
Thiết văn thiên tử dĩ truyền vị,
Thánh đức bắc phục Nam Thiền Vu.
Hoa Môn ly diện thỉnh tuyết sỉ,
Thận vật xuất khẩu tha nhân thư.
Ai tai vương tôn thận vật sơ,
Ngũ Lăng giai khí vô thời vô.
Đỗ Phủ

Nỗi Xa Xót Vương Tôn

Nơi Trường An loài qụa đen đầu trắng
Lúc trời đêm kêu loạn cửa Diên Thu
Lại mổ hư những mái nóc dinh cơ
Mà quan tướng sợ Hồ đều lánh cả
Chín ngựa chết, roi vàng giờ tơi tả
Ngay người thân cũng chẳng được theo cùng
Chuỗi ngọc châu cài dấu ở bên lưng 
Thê thảm quá mắt vương tôn đẫm lệ
Ai gạn hỏi, mím môi dìm thân thế
Xin làm tôi cho qua cảnh khốn cùng
Bao ngày rồi giữa gai góc hãi hùng
Da rách nát chẳng chỗ nào lành lặn
Dòng Cao Đế tướng mũi cao đầy đặn
Cốt cao sang nên khác vẻ thường tình
Tránh sói lang, rồng khổ lụy, điêu linh
Giữa nguy khốn thân nghìn vàng khó giữ
Chuyện dông dài chỉ ít lành nhiều dữ
Thương vương tôn nên nán lại chút thôi
Gió đêm qua sặc mùi máu tanh hôi
Kinh đô cũ lạc đà đầy đường phố
Đám quân Bắc thường can trường, giỏi võ
Giữa trận tiền lại nhút nhát quá tồi
Nghe đồn rằng Thiên tử đã truyền ngôi
Nam Thiền đã nhìn Hán Quang bái phục
Đám Hoa Môn rạch mặt thề rửa nhục
Ráng giữ gìn đừng để lộ hành tung
Xin vương tôn hãy cẩn trọng vô cùng
Vượng khí vẫn trời Ngũ Lăng phảng phất

NguyễnTâmHàn

恩賜麗正殿書院賜宴應得林字 

張說 

東壁圖書府  
西園翰墨林  
誦詩聞國政  
講易見天心 
位竊和羹重  
恩叨醉醴深  
載歌春興曲  
情竭為知音 

ân tứ lệ chính điện thư viện tứ yến ứng đắc lâm tự 

Trương Thuyết 

Đông Bích đồ thư phủ 
Tây viên hàn mặc lâm 
Tụng Thi, văn quốc chính 
Giảng Dịch, kiến thiên tâm 
Vị thiết hoà canh trọng 
Ân thao tuý lễ thâm 
Tài ca xuân hứng khúc 
Tình kiệt vị tri âm 

Cảm Ơn Vua Được Làm Ở Thư Viện Điện Lệ Chính, Cho Dự Tiệc, nhân Làm Thơ Gieo Vần Lâm 

Sách kho Đông Bích chứa đầy
Ngày ngày học giả vườn Tây tụ về
Việc triều chính luận Kinh Thi
Bàn kinh Dịch kiếm hướng đi đạo trời
Tài cao được trọng hơn người
Rượu vua ban đãi khắp nơi ngập tràn
Nghêu ngao Xuân hứng ca vang
Dốc tình tặng tấm lòng vàng tri âm

NguyễnTâmHàn

把酒問月 

李白 

  
青天有月來幾時,我今停杯一問之。 
人攀明月不可得,月行卻與人相隨。 
皎如飛鏡臨丹闕,綠煙滅盡清輝發。 
但見宵從海上來,寧知曉向雲間沒。 
白兔搗藥秋復春,嫦娥孤棲與誰鄰。 
今人不見古時月,今月曾經照古人。 
古人今人若流水,共看明月皆如此。 
唯願當歌對酒時,月光常照金樽裡

Bả tửu vấn nguyệt 

Lý Bạch 

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì , 
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi! 
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, 
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ. 
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, 
Lục yên diệt tận thanh huy phát 
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, 
Ninh tri hiểu hướng vân gian một. 
Bạch thố đảo dược thu phục xuân, 
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân. 
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, 
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. 
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, 
Cộng khan minh nguyệt giai như thử. 
Duy nguyện đương ca đối tửu thì, 
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý. 

***

Nâng Chén Hỏi Trăng

Này trăng, ta hỏi trăng nghe
Trên trời một bóng đi về lâu chưa ?
Ta nào tới được trăng mơ
Mà trăng mãi vẫn đón đưa quanh người
Cửa son ánh toả rạng ngời
Khói xanh vừa biến, lả lơi ánh vàng
Biết trăng từ biển trôi ngang
Khi vừng dương tơí vội vàng ra đi
Tháng ngày bóng thỏ ê chề
Hằng Nga vàng võ đêm khuya một mình
Ta,
trần gian . . . 
chẳng vô tình
Nhưng sao thấy được bóng hình trăng xưa
Biết từ thiên cổ đến giờ
Trăng vàng đã mãi say sưa cùng người
Nhân gian tựa nước trôi xuôi
Ngày qua tháng lại dưới trời cùng trăng
Ca, say giữa cuộc mơ màng
Trăng ơi !
mãi chiếu chén vàng dùm ta
*
NguyễnTâmHàn

北征

 杜甫 

皇帝二载秋, 
闰八月初吉。 
杜子将北征, 
苍茫问家室。 
维时遭艰虞, 
朝野少暇日。 
顾惭恩私被, 
诏许归蓬荜。 
拜辞诣阙下, 
怵惕久未出。 
虽乏谏诤姿, 
恐君有遗失。 
君诚中兴主,
经纬固密勿。 
东胡反未已, 
臣甫愤所切。 
挥涕恋行在, 
道途犹恍惚。 
乾坤含疮痍, 
忧虞何时毕! 
靡靡逾阡陌, 
人烟眇萧瑟。 
所遇多被伤, 
呻吟更流血。 
回首凤翔县, 
旌旗晚明灭。 
前登寒山重, 
屡得饮马窟。 
邠郊入地底, 
泾水中荡潏。 
猛虎立我前, 
苍崖吼时裂。 
菊垂今秋花, 
石戴古车辙。 
青云动高兴, 
幽事亦可悦。 
山果多琐细, 
罗生杂橡栗。 
或红如丹砂, 
或黑如点漆。 
雨露之所濡, 
甘苦齐结实。 
缅思桃源内,
益叹身世拙。 
坡陀望鄜畤, 
岩谷互出没。 
我行已水滨, 
我仆犹木末。 
鸱鸟鸣黄桑, 
野鼠拱乱穴。 
夜深经战场, 
寒月照白骨。 
潼关百万师, 
往者散何卒? 
遂令半秦民, 
残害为异物。 
况我堕胡尘, 
及归尽华发。 
经年至茅屋, 
妻子衣百结。 
恸哭松声回, 
悲泉共幽咽。 
平生所娇儿,
颜色白胜雪。 
见爷背面啼,
垢腻脚不袜。 
床前两小女,
补绽才过膝。 
海图坼波涛, 
旧绣移曲折。 
天吴及紫凤, 
颠倒在裋褐。 
老夫情怀恶, 
呕泄卧数日。 
那无囊中帛, 
救汝寒凛栗。 
粉黛亦解包, 
衾裯稍罗列。 
瘦妻面复光,
痴女头自栉。 
学母无不为, 
晓妆随手抹。 
移时施朱铅, 
狼藉画眉阔。 
生还对童稚, 
似欲忘饥渴。 
问事竞挽鬚,
谁能即嗔喝? 
翻思在贼愁, 
甘受杂乱聒。 
新归且慰意, 
生理焉得说! 
至尊尚蒙尘, 
几日休练卒? 
仰观天色改, 
坐觉妖氛豁。 
阴风西北来, 
惨澹随回纥。 
其王愿助顺, 
其俗善驰突。 
送兵五千人, 
驱马一万匹。 
此辈少为贵,
四方服勇决。 
所用皆鹰腾,
破敌过箭疾。 
圣心颇虚伫, 
时议气欲夺。 
伊洛指掌收, 
西京不足拔。 
官军请深入, 
蓄锐伺俱发。 
此举开青徐, 
旋瞻略恒碣。 
昊天积霜露, 
正气有肃杀。 
祸转亡胡岁, 
势成擒胡月。 
胡命其能久, 
皇纲未宜绝。 
忆昨狼狈初, 
事与古先别。 
奸臣竟菹醢, 
同恶随荡析。 
不闻夏殷衰, 
中自诛褒妲。 
周汉获再兴, 
宣光果明哲。 
桓桓陈将军, 
仗钺奋忠烈。 
微尔人尽非, 
于今国犹活。 
凄凉大同殿, 
寂寞白兽闼。 
都人望翠华, 
佳气向金阙。 
园陵固有神, 
扫洒数不缺。 
煌煌太宗业, 
树立甚宏达

Bắc chinh

Hoàng đế nhị tải thu.
Nhuận bát nguyệt sơ cát.
Đỗ tử tương bắc chinh,
Thương mang vấn gia thất.
Duy chỉ tao gian ngu,
Triều dã thiểu hạ nhật.
Cố tâm ân tư bị,
Chiếu hứa quy bồng tất.
Bái từ giai khuyết hạ,
Truật dịch cửu vi xuất.
Tuy phạp gián tránh tư,
Khủng quân hữu di thất.
Quân thành trung hưng chủ,
Kinh vĩ cố mật vật.
Đông Hồ phản vị dĩ,
Thần Phủ phẫn sở thiết.
Huy thế luyến hành tại,
Đao hồ do hoảng hốt.
Càn khôn hàm sang di,
Ưu ngu hà thì tất ?
Mĩ mĩ du thiên mạch,
Nhân yên diễu tiêu sắt.
Sở ngộ đa bi thương,
Thân ngâm cảnh lưu huyết.
Hồi thủ Phụng Tường huyện,
Tinh kỳ vãn minh diệt.
Tiền đăng hàn sơn trùng,
Lũ đắc ấm mã quật.
Phần giao nhập địa để,
Kinh thủy trung đãng duật.
Mãnh hổ lập ngã tiền,
Thương nhai hồng thì liệt.
Cúc thủy kim thu hoa,
Thạch đái cổ xa triệt.
Thanh vận động cao hứng,
U sự diệc khả duyệt.
Sơn quả đa tỏa tế,
La sinh tạp tượng lật.
Hoặc hồng như đan sa,
Hoặc hắc như điểm tất.
Vũ lộ chi sở nhu,
Cam khổ tề kết thực.
Miến tư đào nguyên nội.
ích thán thân thế chuyết !
Pha đà vọng Phu trĩ,
Nham cốc hỗ xuất một.
Ngã hành dĩ thủy tân,
Ngã bộc do mộc mạt.
Chi điểu minh hoàng tang,
Dã thủ củng loạn huyệt.
Dạ thâm kinh chiến trường,
Hàn nguyệt chiếu bạch cốt.
Đồng Quan bách vạn sư,
Vãng giả tán hà thốt ?
Toại linh bán Tần dân,
Tàn hại vi dị vật.
Huống ngã trụy Hồ trần,
Cập quy tận hoa phát.
Kinh niên chí mao ốc,
Thê tử y bách kết.
Đồng khốc tùng thanh hồi,
Bi tuyền cộng u yết.
Bình sinh sở kiêu nhi,
Nhan sắc bạch thắng tuyết.
Kiến gia bồi diện đề,
Cấu nhị cước bất miệt.
Sàng tiền lưỡng tiểu nữ,
Bổ đỉnh tài quá tất.
Hải đồ chiết ba đào,
Cựu tú di khúc chiết.
Thiên ngô cập tử phụng,
Điên đảo tại đoản hạt.
Lão phu tình hoài ác,
ẩu tiết ngọa sổ nhật.
Ná vô nang trung bạch,
Cứu nhữ hàn lẫm lật.
Phấn đại diệc giải bao,
Khâm trù sảo la liệt.
Sầu thê diện phục quang,
Si nữ đầu tự trất.
Học mẫu vô bất vi,
Hiểu trang tùy thủ mạt.
Di thì thi chu duyên,
Lang tạ họa mi khoát.
Sinh hoàn đối đồng trĩ,
Tự dục vong cơ khát.
Vấn sự cạnh vãn tu,
Thùy năng tức sân hát ?
Phiên tư tại tặc sầu,
Cam thụ tạp loạn quát.
Tân quy thả úy ý,
Sinh lý yên đắc thuyết !
Chi tôn thượng mông trần,
Kỷ nhật hưu luyện tốt.
Ngưỡng quan thiên sắc cải,
Tọa giác yêu phân khoát.
Âm phong tây bắc lai,
Thảm đạm tùy Hồi Ngột.
Kỷ vương nguyện trợ thuận,
Kỷ tục thiện trì đột.
Tổng binh ngũ thiên nhân,
Khu mã nhất vạn thất.
Thử bối thiểu vi quý,
Tứ phương phục dũng quyết.
Sở dụng giai ưng đằng,
Phá địch quá tiễn tật.
Thánh tâm phả hư trữ,
Thì nghĩ khí dục đoạt.
Y Lạc chỉ chưởng thu,
Tây kinh bất túc bạt.
Quan quân thỉnh thâm nhập,
Sức nhuệ khả câu phát.
Thử cử khai Thanh Từ,
Tuyền chiếm lược Hằng Kiệt.
Hao thiên tích sương lô,
Chính khí hữu túc sát.
Họa chuyển vong Hồ tuế,
Thế thành cầm Hồ nguyệt.
Hồ mệnh kỳ năng cửu ?
Hoàng cương vị nghi tuyệt !
ức tích lang bối sơ,
Sư dữ cổ tiên biệt.
Gian thần cánh tư hải,
Đồng ác tùy đãng tích.
Bất văn Hạ Ân suy,
Trung tự tru Bao Đát ?
Chu Hán hoạch tái hưng,
Tuyên Quang quả minh triết.
Hoàn hoàn Trần tướng quân,
Trượng việt phấn trung liệt.
Vi nhĩ nhân tận phi,
U kim quốc do hoạt.
Thê lương Đại Đồng điện,
Tịch mịnh Bạch Thú thát.
Đô nhân vọng thúy hoa,
Giai khí hướng kim khuyết.
Viên lăng cố hữu thần,
Tảo soái số bất khuyết.
Hoàng hoàng Thái Tông nghiệp,
Thụ lập thậm hoằng đạt…
Đỗ Phủ
*****
Đi Miền Bắc
***
Muà thu năm thứ hai
Vua ngự trên ngai báu
Được lên miền Bắc xa
Nơi vợ con nương náu
*
Giữa gian khổ can qua
Khó khăn khăp mọi nhà
Riêng mình ân mưa móc
Vua cho về thăm nhà
*
Lậy tạ trước bệ rồng
Bước lui chẳng đành lòng
Thân bề tôi chưa vẹn
Đâu dám lời tôi trung
*
Vua là đấng con trời
Trị muôn dân tuyệt vời
Nhưng bọn Đông Hồ vẫn 
Quấy nhiễu mãi không thôi
Khắp dân tình căm hận
Lời oán than ngất trời 
*
Đành gạt lệ bước đi
Lòng vương vấn trăm bề
Đất trời nhiều ngang trai
Bao giờ hết nhiêu khê
*
Bước lầm lũi trên đồng
Bếp nhà ai khói vương
Người bị thương rên rỉ
Máu loang lổ trên đường
*
Quay đầu nhìn Phụng Tường
Bóng cờ giữa chiều buông
Núi trập trùng trước mặt
Nước vũng ngựa lỏng cương
*
Tới vùng trũng huyện Phần
Sông Kinh chẩy ầm ầm
Cọp lờn vờn trước mặt
Rống vang dội sơn lâm
*
Cúc rũ giữa mùa thu
Vết xe xưa rêu mờ
Lòng lâng lâng niềm hứng
Trời cao vút xanh lơ
*
Niềm vui giữa tịch liêu
Cây rừng trái thật nhiều
Dây leo xen quả dẻ
Đen lẫn đỏ son điều
*
Thấm mưa nắng thuận hoà
Ngọt đắng đều đơm hoa
Tâm vời nguồn đào cũ
Nghĩ mình thật vụng về
*
Gập ghềnh hướng châu Phu
Hang ẩn hiện lờ mờ
Tới ven bờ sông vắng
Vừng dương hãy còn kia
*
Cú trong ruộng dâu vàng
Chuột đùa giỡn trước hang
Đêm đi qua chiến địa
Trăng chiếu xương ngổn ngang
*
Trăm vạn quân Ải Đồng
Bỗng một thoáng bại vong
Khiến dân Tần một nửa
Thành ma thật não nùng
Thân ta bụi Hồ bám
Trở về tóc pha sương
*
Nơi mái tranh bước về
Nhìn vợ con thảm thê
Áo quần vá trăm mảnh
Cảnh bèo nheo não nề
*
Âm buồn tiếng suối reo
Thằng con xưa cưng chiều
Mặt xanh xao nhợt nhạt
Quay mặt chả thèm theo
Chân không đầy cáu ghét
Bên chiếc giường vẹo xiêu
Hai đứa con gái đứng
Áo cũn cỡn tiêu điều
*
Vợ, aó cũ biển thêu
Làn sóng đã gẫy nhiều
Nét dọc ngang xô lệch
Thiên ngô, phượng bèo nheo
Trong áo manh mỏng ngắn
Nhìn đau xót trăm chiều
*
Dù trong người chẳng yên
Bị tả mấy hôm liền
Cũng mở bao tặng lụa
Bớt nỗi lạnh triền miên
*
Son phấn bọc trong khăn
Mở ra bầy đầy chăn
Nét sầu nàng tan biến
Con chải đầu lăng xăng
*
Bắt chước mẹ điểm trang
Phấn son bôi lổ loang
Thỉnh thoảng chấm thoa sáp
Chân mày vẽ bệt ngang
*
Được gần gũi con thơ
Quên đói khát xác xơ
Trẻ kéo râu đùa giỡn
Đâu lỡ mắng con khờ
*
Sầu chinh chiến ngổn ngang
Con dại phá chẳng màng
Cùng vui ngày hội ngộ
Việc sinh kế bỏ sang
*
Thương Thiên Tử lao đao
Luyện quân bỏ được nào
Nhìn trời mây tang hải
Khí yêu quái dâng cao
*
Gió lạnh tây bắc qua
Hồi Ngột giúp quân nhà
Cùng quân mình liền cánh
Binh họ giỏi xông pha
*
Chỉ khoảng năm ngàn quân
Đoàn ngựa gấp hai lần
Binh ít nhưng tinh nhuệ
Họ kiên quyết bền gan
*
Quân tiến vụt như chim
Phá giặc nhanh hơn tên
Vua hết lòng tin cậy
Mặc dư luận đang lên
*
Trở tay đã thu Y
Tây Kinh đâu nề gì
Quan quân thêm hừng chí
Muốn cùng tiến một khi
*
Trận mở lối Thanh Từ
Hằng Kiệt chiếm êm ru
Trời móc sương trong sáng
Chính khí lấn bóng mờ
*
Họa hết lúc tàn Hồ
Thế vững lại như xưa
Khí Hồ sao tồn được
Trước kỷ cương nhà vua
*
Lúc thời buổi rối ren
Việc khác xưa nào quen
Bọn gian thần đền tội
Lũ đồng lõa cũng tan
*
Chuyện Hạ Ân nguy nan
Bọn Bao Đát tự tan
Chu Hán lên dựng nghiệp
Bậc tài có Tuyên Quang
*
Tướng Trần đấng anh hùng
Ngọn giáo bừng khí trung
Thiên hạ được bao kẻ
Giang sơn còn nhờ ông
*
Điện Đại Đồng hoang liêu
Cửa Bạch Thủ quạnh hiu
Khắp hoàng thành ngóng đợi
Vua về tiếng quân reo
*
Khu vườn lăng thiêng liêng
Vẫn quét dọn thường xuyên
Nghiệp Thái Tông hùng vĩ
Công lớn rộng vô biên
*
NguyễnTâmHàn

白头吟 

李白 

锦水东北流,波荡双鸳鸯。雄巢汉宫树,雌弄秦草芳。 
宁同万死碎绮翼,不忍云间两分张。此时阿娇正娇妒, 
独坐长门愁日暮。但愿君恩顾妾深,岂惜黄金买词赋。 
相如作赋得黄金,丈夫好新多异心。一朝将聘茂陵女, 
文君因赠白头吟。东流不作西归水,落花辞条羞故林。 
兔丝固无情,随风任倾倒。谁使女萝枝,而来强萦抱。 
两草犹一心,人心不如草。莫卷龙须席,从他生网丝。 
且留琥珀枕,或有梦来时。覆水再收岂满杯,弃妾已 
去难重回。古来得意不相负,只今惟见青陵台。

Bạch đầu ngâm
***
Cẩm thủy đông băc lưu
Ba đãng song uyên ương
Hùng sào Hán cung thụ
Thư lộng Tần thảo phương
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương
Thử thời A Kiều chính kiều đồ
Độc toạ trường môn sầu nhật mộ
Đản nguyệt quân ân cố thiếp thâm
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú
Tương Như tác phú đắc hoàng kim
Trượng phu hiếu tan đa dị tâm
Nhất triêu tương sinh Mậu Lăng nữ
Văn quân nhân tặng Bạch đầu ngâm
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ
Lạc hoa từ điều tu cố lâm
Thố ti cố vô tình
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo
Thuỳ sử nữ la chi
Nhi lai cưỡng oanh bão
Lưỡng thảo do nhất tâm
Nhân tâm bất như thảo
Mạc quyển long tu tịch
Tòng tha sinh võng ty
Thả lưu hổ phách chẩm
Hoặc hữu mộng lai thì
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi
Cổ lai đắc ý bất tương phụ
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài…

*******

Dòng Cẩm Thủy chảy về miền đông bắc
Cặp uyên ương theo sóng vỗ dạt sô
Chú trống kìa . . . nơi cung Hán nhởn nhơ
Đất Tần đấy. . . mái vui mùi thơm cỏ
Dù phải chết vẫn bên nhau không bỏ
Chẳng đành lòng ly biệt giữa trời mây
Gương A Kiều cơn ghen thuở nào đây
Rồi tàn tạ nơi Trường Môn hiu hắt
Chỉ mong được đấng quân vương để mắt
Từ phú nào đâu nuối tiếc bạc vàng
Xưa Tương Như làm phú được giầu sang
Nên danh phận mưu thay lòng đổi dạ
Gái Mâu Lăng tính ngày đêm chung chạ
Khiến Văn Quân tặng bài phú Bạch Đầu
Đông hoặc tây, nước chảy một dòng sâu
Hoa rơi rụng thẹn cùng rừng núi cũ
Như thô ti theo gió đùa nghiêng ngả
Cành nữ la vẫn ngày tháng quấn quanh
Loài dây leo cũng còn vẹn ý tình
Sao nhân thế lại không bằng cây cỏ
Đừng cuốn lại. . . chiếu long tu để đó 
Hãy mặc cho những tơ nhện giăng đầy
Cứ để yên gối hổ phách chớ thay
Biết đâu đó đêm ru ta tình mộng 
Nước đã đỗ hốt vào sao đầy cóng
Chia lìa rồi xum họp phải dễ đâu
Trên đời này đắc ý chẳng phụ nhau
Qua ngày tháng đài Thanh Lăng còn đấy

NguyễnTâmHàn

岑參 
白雪歌送武判官歸京 
北風捲地白草折, 胡天八月即飛雪; 
忽如一夜春風來, 千樹萬樹梨花開。 
散入珠簾濕羅幕, 狐裘不煖錦衾薄。 
將軍角弓不得控, 都護鐵衣冷猶著。 
瀚海闌干百丈冰, 愁雲黲淡萬里凝。 
中軍置酒飲歸客, 胡琴琵琶與羌笛。 
紛紛暮雪下轅門, 風掣紅旗凍不翻。 
輪臺東門送君去, 去時雪滿天山路; 
山迴路轉不見君, 雪上空留馬行處
Bạch tuyết ca tống Vũ Phán quan quy kinh

Bắc phong quyển địa bạch thảo chiết 
Hồ thiên bát nguyệt tức phi tuyết 
Hốt như nhất dạ xuân phong lai 
Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai 
Tán nhập châu liêm thấp la mạc 
Hồ cừu bất noãn cẩm khâm bạc 
Tướng quân giác cung bất đắc khống 
Đô hộ thiết y lãnh do trước 
Hãn hải lan can bách trượng băng 
Sầu vân ảm đạm vạn lý ngưng 
Trung tâm trí tửu ẩm quy khách 
Hồ cầm tỳ bà dữ Khương địch 
Phân phân mộ tuyết hạ viên môn 
Phong chế hồng kỳ đống bất phiên 
Luân đài đông môn tống quân khứ 
Khứ thời tuyết mãn Thiên Sơn lộ 
Sơn hồi lộ chuyển bất kiến quân 
Tuyết thượng không lưu mã hành xứ 
Sầm Tham
*
( Bài hát Tuyết Trắng đưa Vũ Phán quan về kinh)
Cỏ tàn tạ giữa heo may
Xứ Hồ tháng tám tuyết bay ngập trời
Gió Xuân chỉ một đêm thôi 
Ngàn hoa lê nở khắp nơi lan tràn
Hoa bay bám ướt rèm màn
Áo cừu, chăn gấm chẳng làm ấm thân
Giương cung thiếu sức, soãi gân
Giáp y lạnh toát vẫn quanh thân mình
Ven bờ băng đá mông mênh
Mây mù ảm đạm xây thành trời xa
Tiệc chia tay đãi khách về
Tì bà, Khương sáo, tỉ tê đàn Hồ
Tuyết rơi
chiều xuống lờ mờ
Cờ hồng đóng đá cứng đơ lạnh lùng
Luân Đài đưa tiễn bước ông
Thiên Sơn băng giá, khắp vùng tuyết sa
Đường quanh co nhận chẳng ra
Mờ mờ dấu ngựa bước qua lu dần
*
NguyễnTâmHàn
百憂集行 
杜甫 
憶年十五心尚孩 
健如黃犢走復來 
庭前八月梨棗熟 
一日上樹能千回 
即今倏忽已五十 
坐臥只多少行立 
強將笑語供主人 
悲見生涯百憂集 
入門依舊四壁空 
老妻睹我顏色同 
痴兒未知父子禮 
叫怒索飯啼門東
Bách ưu tập hành
***
Ức niên thập ngũ tâm thượng hài
Kiện như hoàng độc tẩu phục lai
Đình tiền bát nguyệt lê tảo thục
Nhất nhật thượng thụ năng thiên hồi.
Tức kim thúc hốt dĩ ngũ thập
Tọa ngọa chỉ đa, thiểu hành lập
Cưỡng tương tiếu ngữ cung chủ nhân
Bi kiến sinh nhai bách ưu tập.
Nhập môn y cựu tứ bích không
Lão thê đổ ngã nhan sắc đồng
Si nhi vị tri phụ tử lễ
Khiếu nộ sách phạn đề môn đông.
Đỗ Phủ
*******
Trăm Nỗi Lo Dồn
***
Nhớ cái thuở thân trai đang độ lớn
Như bê con suốt ngày chạy lăng xăng
Trời tháng tám trước sân lê táo chin
Trèo lên cây ngày dễ cả nghìn lần

Thấm thoắt đó mà giờ năm mươi tuổi
Biếng đứng đi, thân chỉ muốn nằm, ngồi
Phải gượng gạo nói cười chiều lòng chủ 
Trăm điều lo thật rầu rĩ khôn nguôi

Nhà sau trước bốn vách không, trống rỗng
Nét u sầu chồng vợ đứng nhìn nhau
Con còn dại nào hay điều nghiệt ngã
Khóc đòi ăn nơi cửa nghĩ thêm rầu
NguyễnTâmHàn

板橋路 
白居易 
梁苑城西二十里, 
一渠春水柳千條。 
若為此路今重過, 
十五年前舊板橋。 
曾共玉顏橋上別, 
不知消息到今朝。 
Bản kiều lộ
Lương uyển thành tây nhị thập lý , 
Nhất cừ xuân thủy liễu thiên điều. 
Nhược vi thử lộ kim trùng quá, 
Thập ngũ niên tiền cựu bản kiều. 
Tằng cộng ngọc nhan kiều thượng biệt, 
Bất tri tiêu tức đáo kim triêu.
Bạch Cư Dị
*
Đường cầu ván
Ngoài hai mươi dặm Vườn Lương 
Suối Xuân róc rách liễu vương tơ sầu
Giờ ngang lối cũ lòng đau
Mười lăm năm trước trên cầu cùng ai
Phút chia tay luống ngậm ngùi
Người xưa biền biệt phương trời nào đâuNguyễnTâmHàn

兵車行 

車轔轔 
馬蕭蕭 
行人弓箭各在腰 
耶孃妻子走相送 
塵埃不見咸陽橋 
牽衣頓足攔道哭 
哭聲直上干雲霄 
道旁過者問行人 
行人但云點行頻 
或從十五北防河 
便至四十西營田 
去時里正與裹頭 
歸來頭白還戍邊 
邊亭流血成海水 
武皇開邊意未已 
君不聞 
漢家山東二百州 
千村萬落生荊杞 
縱有健婦把鋤犁 
禾生隴畝無東西 
況復秦兵耐苦戰 
被驅不異犬與雞 
長者雖有問 
役夫敢申恨 
且如今年冬 
未休關西卒 
縣官急索租 
租稅從何出 
信知生男惡 
反是生女好 
生女猶得嫁比鄰 
生男埋沒隨百草 
君不見 
青海頭 
古來白骨無人收 
新鬼煩冤舊鬼哭 
天陰雨濕聲啾啾 

Binh xa hành 

Xa lân lân, 
Mã tiêu tiêu, 
Hành nhân cung tiễn các tại yêu. 
Gia nương thê tử tẩu tương tống, 
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều. 
Khiên y đốn túc lạn đạo khốc, 
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu. 
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân, 
Hành nhân đãn vân : điểm hành tần. 
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà, 
Tiện chí tứ thập tây doanh điền. 
Khứ thời lý chánh dữ khỏa đầu, 
Qui lai đầu bạch hoàn thú biên. 
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ, 
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ. 
Quân bất văn : Hán gia sơn đông nhị bách châu, 
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ ? 
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê, 
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê. 
Huống phục Tần binh nại khổ chiến, 
Bị khu bất dị khuyển dữ kê ! 
Trưởng giả tuy hữu vấn, 
Dịch phu cảm thân hận ! 
Thả như kim niên đông, 
Vị hưu Quan Tây tốt. 
Huyện quan cấp sách tô, 
Tô thuế tòng hà xuất ? 
Tín tri sinh nam ác, 
Phản thị sinh nữ hảo. 
Sinh nữ do đắc giá tị lân, 
Sinh nam mai một tùy bách thảo. 
Quân bất kiến Thanh Hải đầu, 
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu ? 
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc, 
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu. 

Đỗ Phủ

Bài Ca Xe Trận 

Ngựa hí lộng, xe sầm sập tiến
Kẻ ra đi cung kiếm đeo lưng
Người theo tiễn bước trập trùng
Cầu Hàm Dương giữa bụi tung mịt mờ
Tay níu kéo, miệng oà khóc thảm
Giọng bi ai thăm thẳm đỉnh trời
Khách ngang thăm hỏi đôi lời
Thưa rằng chinh chiến bắt người tòng quân
Trẻ mười lăm lãnh phần giữ nước
Tuổi bốn mươi lo việc khẩn điền
Khăn đầu cụ Lý quấn lên
Tóc phai về tới, lệnh liền lại đi
Máu biên ải thôi thì biển đỏ
Mở cõi bờ vua bỏ ý đâu
Thấy xưa, Hán cả trăm châu
Ngàn thôn xóm bỏ rặt mầu cỏ hoang
Dù nhi nữ kiếm đường cầy cuốc
Chắc gì đâu hưởng được hoa mầu
Vào Tần chinh chiến khổ đau
Bị xua nào có khác đâu chó gà
Khách quan hỏi cho ra lý lẽ
Tôi dám đâu cặn kẽ tỏ bầy
Nói chi, chỉ mới Đông này
Bắt quân đổ hướng Quan Tây từng đoàn
Lệnh sưu thuế đòi tràn bất kể
Lấy đâu ra của để nộp đây
Sinh trai thật lắm đắng cay
Có con là gái họa may đỡ phiền
Kiếm quanh quẩn xóm giềng gả bán
Còn hơn trai vùi mạng sa trường
Ngài hay, Thanh Hải biên cương
Cốt xương lính ngập sa trường khắp nơi
Oan hồn vất vưởng đầy trời
Tỉ tê tiếng khóc ….sập sùi mưa giăng 

NguyễnTâmHàn

李頎 

琴歌 

主人有酒歡今夕, 請奏鳴琴廣陵客。 
月照城頭烏半飛, 霜淒萬樹風入衣; 
銅鑪華燭燭增輝, 初彈淥水後楚妃。 
一聲已動物皆靜, 四座無言星欲稀。 
清淮奉使千餘里, 敢告雲山從此始。

Cầm ca 

Chủ nhân hữu tửu hoan kim tịch 
Thỉnh tấu minh cầm Quảng Lăng khách 
Nguyệt chiếu thành đầu điểu bán phi 
Sương thê vạn thụ phong nhập y 
Đồng lô hoa chúc chúc tăng huy 
Sơ đàn Lục thủy hậu Sở phi 
Nhất thanh dĩ động vật giai tĩnh 
Tứ tọa vô ngôn tinh dục hy 
Thanh Hoài phụng sứ thiên dư lý 
Cảm cáo Vân Sơn tòng thử thủy. 
Lý Kỳ
*

Cầm ca

*

Đêm còn dài
Rượu thơm nồng đầy hũ
Tiếng nhạc đàn khách Quảng Lăng luân vũ
Chim la đà
Trăng chênh chếch đầu thành
Cành lá đong đưa, 
gió thoảng mong manh
Giọt sương rớt ngủ im trên áo
Lò lửa hồng thêm nến hoa mờ ảo
Lục thủy qua lại tiếp đến Sở phi
Đàn rung lên
Cảnh vât lịm đi
Khách chìm lắng…
Sao khuya dần thưa bớt
Tới Thanh Hoài …. ngàn dặm đường xa tắp
Đành ngậm ngùi …
bước từ giã Vân Sơn
*
NguyễnTâmHàn

渭 川 田 家 
王 維 
斜 陽 照 墟 落 
窮 巷 牛 羊 歸 
野 老 念 牧 童 
倚 杖 候 荊 扉 
雉 雊 麥 苗 秀 
蠶 眠 桑 葉 稀 
田 夫 荷 鋤 立 
相 見 語 依 依 
即 此 羨 閒 逸 
悵 然 吟 式 微 
Vị Xuyên điền gia 
Vương Duy 
Tà dương chiếu khư lạc , 
Cùng hạng ngưu dương qui , 
Dã lão niệm mục đồng , 
Ỷ trượng hậu kinh phi . 
Trĩ cấu mạch miêu tú , 
Tàm miên tang diệp hi , 
Điền phu hạ sừ chí , 
Tương kiến ngữ y y . 
Tức thử tiễn nhàn dật , 
Trướng nhiên ngâm thức vi . 
*
Cảnh Nhà Nông ở Vị Xuyên
*Thôn làng nắng ngả chiều buông
Lối mòn mục súc về chuồng nghỉ ngơi
Lão nông đợi mục trông vời
Lom khom gậy đỡ đứng ngoài cổng tre
Chim kêu, đồng lúa xanh rì
Lá dâu thưa thớt, tằm mê ngủ rồi
Nông dân cầy cuốc trên vai
Gặp nhau ba truyện trong ngày làm vui
Yêu đời nhàn tản vậy thôi
Lâng lâng cao hứng hát bài Thức vi
*
NguyễnTâmHàn

戰城南 

李白 

去年戰,桑乾源﹔   
今年戰,蔥河道。   
洗兵條支海上波,   
放馬天山雪中草。   
萬裡長征戰,   
三軍盡衰老。   
   
匈奴以殺戮為耕作,   
古來唯見白骨黃沙田。   
秦家筑城備胡處,   
漢家還有烽火然。   
   
烽火然不息,   
征戰無已時。   
野戰格斗死,   
   
敗馬號鳴向天悲。   
烏鳶啄人腸,   
銜飛上挂枯樹枝。   
士卒涂草莽,   
將軍空爾為。   
乃知兵者是凶器,   
聖人不得已而用之。

Chiến thành nam
***
Khứ niên chiến, Tang Càn nguyên,
Kim niên chiến, Thông Hà đạo.
Tẩy binh Điều Chi hải thượng ba,
Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Vạn lý trường chinh chiến,
Tam quân tận suy lão.
Hung nô dĩ sát lục vi canh tác ;
Cổ lai duy kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa nhiên bất tức,
Chinh chiến vô dĩ thì.
Dã chiến cách đấu tử,
Bại mã hào minh hướng thiên bi.
Ô diên trác nhân trường,
Hàm phi thướng quải khô thụ chi.
Sĩ tốt đồ thảo mãng,
Tướng quân không nhĩ vi.
Nãi tri binh giả thị hung khí,
Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi.
***
LýBạch

*****
Trên sông Tang mới năm qua máu đổ
Dòng sông Thông nay lại ngập xác người
Gươm Điều Chi vụt sóng gió ngoài khơi
Ngựa gậm cỏ nơi Thiên Sơn ngập tuyết
Chinh chiến tràn lan bao năm chưa hết
Nhìn ba quân đều gầy ốm già nua
Quân Hung Nô giết chóc thế cầy bừa
Từ thiên cổ vẫn cát vàng xương trắng
Hồ Xứ thành, Tần xây cao sừng sững
Cháy ngút trời quân Hán đốt còn kia
Lửa binh đao ngùn ngụt đến bao giờ
Cuộc binh biến kéo dài bao lâu nữa
Thây chồng chất nơi sa trường thối rữa
Ngựa ngẩn ngơ hí vang lộng vùng trời
Quạ đói mồi mặc tình rỉa ruột người
Tha vứt bỏ nơi cành khô tơi tả
Thây người nát bón gốc cây bờ cỏ
Cảnh điêu tàn tướng lãnh cũng bó tay
Chuyện binh đao là diều dở xưa nay 
Bậc hiền đức ít khi nào dùng tới
***
NguyễnTâmHàn

Chương Đài Liễu (II) 

*

Dương liễu chi, phương phi tiết, 
Khả hận niên niên tặng ly biệt. 
Nhất diệp tùy phong hốt báo thu, 
Túng sử quân lai khởi kham chiết !
Liễu thị

Cành Liễu Chương Đài 2
*
Đã trao nhánh liễu đương thì
Dù ôm năm tháng chia ly bẽ bàng 
Lại Thu …
Gió cuốn lá vàng
Cành xanh đâu hái dâng chàng hồi hương
*
NguyễnTâmHàn


Chương Đài Liễu 
Chương Đài liễu, Chương Đài liễu! 
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? 
Túng sử trường điều tự cựu thuỳ 
Dã ưng phan chiết tha nhân thủ. 
HànHồng
Liễu Chương đài
 *
Chương Đài…này liễu Chương Đài
Thắm tươi hẳn vẫn giữ hoài nét xưa ?
Rũ mềm trước gió đong đưa
Khách tình hẳn đã bẻ bừa còn đâu
*
NguyễnTâmHàn
古別曲 
孟郊 
颯颯秋風生, 
愁人怨離別。 
含情兩相向, 
欲語氣先咽。 
心曲千萬端, 
悲來卻難說。 
別後惟所思, 
天涯共明月。
 
Cổ biệt khúc 
Mạnh Giao 
Táp táp thu phong sinh, 
Sầu nhân oán ly biệt. 
Hàm tình lưỡng tương hướng, 
Dục ngữ khí tiên yết. 
Tâm khúc thiên vạn đoan, 
Bi lai khước nan thuyết. 
Biệt hậu duy sở tư, 
Thiên nhai cộng minh nguyệt. 
Khúc biệt ly xưa
Ngọn gió Thu hiu hắt
Giữa nỗi buồn biệt ly
Nhìn nhau lòng quặn thắt
Còn biết nói năng chiTim nát từng mảnh vụn
Nghẹn ngào chẳng thành lời
Xa nhau dầy nhung nhớ
Còn chung bóng trăng thôiNguyễnTâmHàn
李頎 
古從軍行
 白日登山望烽火, 黃昏飲馬傍交河。 
行人刁斗風沙暗, 公主琵琶幽怨多。 
野雲萬里無城郭, 雨雪紛紛連大漠。 
胡雁哀鳴夜夜飛, 胡兒眼淚雙雙落。 
聞道玉門猶被遮, 應將性命逐輕車。 
年年戰骨埋荒外, 空見葡萄入漢家。
Cổ tòng quân hành 
Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa 
Hoàng hôn ẩm mã bàng Giao hà 
Hành nhân điêu đẩu phong sa ám 
Công chúa tỳ bà u oán đa! 
Dã doanh vạn lý vô thành quách 
Vũ tuyết phân phân liên đại mạc 
Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi 
Hồ nhi nhãn lệ song song lạc. 
Văn đạo Ngọc Môn do bị già 
Ứng tương tính mệnh tống Khinh xa 
Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại 
Không kiến bồ đào nhập Hán gia. 
Lý Kỳ
*
Bài hành về việc tòng quân ngày xưa *
Ngày canh lửa báo đỉnh non
Chiều về ngựa uống nước nguồn dòng Giao
Mõ khua,
gió cát thét gào
Đàn ơi …
Sao tiếng nghẹn ngào, thảm thương
Không thành quách vạn dặm trường
Khắp vùng sa mạc thê lương tuyết dầm
Đất Hồ nhạn hoảng kêu đêm
Người Hồ bi thiết ruột mềm, lệ rơi
Ngọc Môn vẫn lửa mịt trời
Hẳn là định mệnh theo đời Khinh xa
Bao mồ chôn tháng năm qua
Chỉ nhìn nho tải dâng nhà Hán thôi
*
NguyễnTâmHàn

久別離 

別來幾春未還家, 
玉窗五見櫻桃花。 
況有錦字書, 
開緘使人嗟。 
至此腸斷彼心絕。 
雲鬟綠鬢罷梳結, 
愁如回飆亂白雪。 
去年寄書報陽台, 
今年寄書重相催。 
東風兮東風, 
為我吹行雲使西來。 
待來竟不來, 
落花寂寂委青苔。

Cửu biệt ly

***
Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa
Huống hữu cẩm tự thư
Khai giam sử nhân ta
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết
Khứ niên ký thư báo Dương Đài
Kim niên ký thư trùng tương thôi
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai !
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài…
***
LýBạch

***
Đã mấy mùa xuân chẳng trở về
Năm lần đào nở trước vườn kia
Bồn chồn nhận được dòng thư gấm
Nét chữ xem rồi chợt tái tê
*
Xé nát tim gan, nỗi đọạn trường
Tóc mây thôi thắt, tóc mai vương
Sầu dâng . . . lốc thổi tan băng tuyết
Lỗi hẹn năm rồi nơi đất Dương
*
Rồi đến năm nay lại giục đi
Gió đông . . . này hỡi gió đông về
Thổi dùm mây tới trời tây đó
Mơ bóng hình ai . . . biệt não nề
*
Rêu xanh hoa phủ
Lặng lẽ . . . 
lê thê
!

***
NguyễnTâmHàn

夜 上 受 降 城 聞 笛 

回 樂 峰 前 沙 似 雪
受 降 城 外 月 如 霜
不 知 何 處 吹 籚 管
一 夜 征 人 盡 望 鄉

李 益

Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch

Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương
Bất tri hà xứ xuy lô quản
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
Lý Ích

Nghe Sáo Khuya Nơi Thụ Hàng

Núi Hồi phía trước cát trắng tinh 
Trăng bạc như sương ngoại Thụ thành
Văng vẳng sáo lau buồn vọng lại
Giọt sầu tê buốt dạ viễn chinh

NguyễnTâmHàn

大林寺桃花 

白居易 

人間四月芳菲盡 
山寺桃花始盛開 
長恨春歸無覓處 
不知轉入此中來 

Đại Lâm tự đào hoa 

Bạch Cư Dị 

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận , 
Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai . 
Trường hận xuân qui vô mịch xứ , 
Bất tri chuyển nhập thử trung lai . 

Hoa đào chùa Đại Lâm 

Hoa tàn tạ, đã tháng tư
Quanh chùa đỉnh núi đào vừa trổ bông
Từ đâu Xuân lại bực không 
Giờ còn lẩn khuất tận trong núi này

NguyễnTâmHàn

滕王閣 

王勃 

滕王高閣臨江渚﹐ 
佩玉鳴鸞罷歌舞。 
畫棟朝飛南浦雲﹐ 
朱帘暮捲西山雨。 
閑雲潭影日悠悠﹐ 
物換星移幾度秋。 
閣中帝子今何在﹐ 
檻外長江空自流。 

Đằng Vương Các 

Vương Bột 

Đằng Vương cao các lâm giang chử 
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ 
Họa đống triêu phi Nam phố vân 
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ 
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du 
Vật hoán tinh di kỷ độ thu 
Các trung đế tử kim hà tại? 
Hạm ngoại Trường giang không tự lưu 

Lầu Xưa Đằng Vương

Nhìn lầu trên bãi sông
Xưa vui ca, giờ quá não nùng
Cột trên thân vẽ hoa
Giữa bình minh một thoáng mây qua
Vời trông qua trướng thêu
Núi nẻo xa mờ phủ mây chiều
Ngàn năm mây vẫn bay
Trên đầm in còn mãi không phai
Đời bao nhiêu đổi thay
Đâu người xưa ở chốn gác này
Kìa bên hiên nước trôi
Mãi ngàn năm về chốn xa xôi

NguyễnTâmHàn

擣衣篇 

李白 

閨裏佳人年十餘 
顰蛾對影恨離居 
忽逢江上春歸燕 
銜得雲中尺素書 
玉手開緘長歎息 
狂夫猶戍交河北 
萬里交河水北流 
願為雙燕泛中洲 
君邊雲擁青絲騎 
妾處苔生紅粉樓 
樓上春風日將歇 
誰能攬鏡看愁發 
曉吹員管隨落花 
夜搗戎衣向明月 
明月高高刻漏長 
真珠簾箔掩蘭堂 
橫垂寶幄同心結 
半拂瓊筵蘇合香 
瓊筵寶幄連枝錦 
燈燭熒熒照孤寢 
有使憑將金剪刀 
為君留下相思枕 
摘盡庭蘭不見君 
紅巾拭淚生氤氳 
明年若更征邊塞 
願作陽臺一斷雲

Đảo y thiên
***
Khuê lý giai nhân niên thập dư 
Tần nga đối ảnh hận ly cư 
Hốt phùng giang thượng xuân qui yến 
Hàm đắc vân trung xích tố thư 
Ngọc thủ khai giam trường thán tức 
Cuồng phu do thú Giao Hà bắc 
Vạn lý Giao Hà thủy bắc lưu 
Nguyện vi song điểu phiếm trung châu 
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ 
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu 
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết 
Thùy năng lãm kính khan sầu phát 
Hiểu xuy huân quản tùy lạc hoa 
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt 
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường 
Trân châu liêm bạc yểm lan đường 
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết 
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương 
Quỳnh diên , bảo ác liên chi cẩm 
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm 
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao 
Vị quân lưu hạ tương tư chẩm 
Trích tận đình lan bất kiến quân 
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân 
Minh niên cánh nhược chinh biên tái 
Nguyện tác Dương đài nhất đoạn văn 
LyBach

*******
Hơn mười năm chốn phòng khuê chiếc bóng
Chau rèm mi buồn kiếp sống cô đơn
Rồi bỗng đâu én xuân đến mang tin
Từ mây xuống ngậm cánh thư lụa trắng
Tay mở thư miệng thở dài cay đắng
Gã chồng cuồng vẫn vui chốn bắc Giao
Muôn dặm xa dòng mãi chẩy về đâu
Chỉ mơ được là đôi chim liền cánh
Mây quanh chàng, ngựa tơ xanh óng ánh
Bên mình em lầu phấn phủ rêu mờ
Tháng ngày dài gió xuân sắp qua đi
Đâu lòng dạ đối gương . . . sầu trên tóc
Nhìn hoa rơi, sáng buồn vương sáo trúc
Giặt nhung y, đêm ngắm ánh trăng vàng
Trăng chơi vơi kéo dài mãi thời gian
Rèm châu rủ che nhà lan khuất hết
Ánh màn báu giải đồng tâm xe kết
Nửa chiếu còn thoảng tô hợp quỳnh hương
Nhìn cánh thêu trên màn, chiếu vấn vương
Đèn nến sáng riêng mình em đơn lẻ
Nếu nhắn được tin tới chàng em sẽ
Lấy kéo vàng cắt may gối tương tư
Lan ngoài vườn hái hết tự bao giờ 
Chàng biệt bóng…mắt mờ . . .khăn đẫm lệ
Nếu năm sau vẫn vương sầu nhân thế
Em hoá thân thành mậy chốn Dương Đài
***
NguyễnTâmHàn

題破山寺後禪院 
常建 
清晨入古寺, 
初日照高林。 
曲徑通幽處, 
禪房花木深。 
山光悅鳥性, 
潭影空人心。 
萬籟此俱寂, 
惟聞鐘磬音。 
Đề Phá Sơn tự hậu thiền viện 
Thường Kiến 
Thanh thần nhập cổ tự, 
Sơ nhật chiếu cao lâm. 
Khúc kính thông u xứ, 
Thiền phòng hoa mộc thâm. 
Sơn quang duyệt điểu tính, 
Đàm ảnh không nhân tâm. 
Vạn lại thử câu tịch, 
Duy văn chung khánh âm. 
*
Đề ở thiền viện sau chùa Phá Sơn 
Sớm mai thanh tịnh viếng chùa
Ánh dương mới đủ sáng vừa ngọn cao
Quanh co lối nhỏ về sau
Thiền phòng bao phủ giữa mầu lá hoa
Chim ưa nắng núi chan hoà
Người tâm trong sáng như là đầm trong
Giữa vùng tĩnh mịch mênh mông
Âm chuông, khánh vọng không trung mơ màng
NguyễnTâmHàn

題都城南莊 

崔護 

去年今日此門中, 
人面桃花相映紅; 
人面不知何處去, 
桃花依舊笑東風。

Đề thành đô nam trang 

Khứ niên kim nhật thử môn trung 
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng 
Nhân diện bất tri hà xứ khứ 
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong
Thôi Hộ 

Đề nơi Nam thành đô

Bài 1
Năm qua bên cửa dáng ai
Hây hây má thắm, hồng tươi sắc đào
Giờ nàng biền biệt phương nào
Chỉ hoa vẫn đó khoe mầu đón xuân

Bài 2
Năm qua cũng tại cửa này
Hoa đào khoe sắc, em hây má hường
Giờ người biền biệt xa phương
Chỉ còn hoa nở trong vườn thắm tươi

NguyễnTâmHàn

東山與拜梅子飲 

幾度到清華;
東山今始過。
野草侵幽徑;
仙洞接人家。
山廟苔鋪舊;
湖樓酒酌斜。
銅鼓何時擊;
餘聲動碧波。

Đông Sơn dữ Bái Mai Tử ẩm 

Kỷ độ đáo Thanh Hoa;
Đông Sơn kim thủy qua.
Dã thảo xâm u kính;
Tiên động tiếp nhân gia.
Sơn miếu đài phô cựu;
Hồ lâu tửu chước tà.
Đồng cổ hà thời kích?
Dư thanh động bích ba!

Mấy lần đã tới Thanh Hoa
Đông Sơn giờ mới ghé qua lần này
Đường vắng hoe
Cỏ mọc đầy
Động tiên san sát cạnh ngay nhà người
Sườn non nóc miếu rêu phơi
Bên lầu nâng chén rượu mời ngả nghiêng
Tự bao giờ trống điểm lên
Mà dư âm động còn trên sóng hồ

NguyễnTâmHàn

堂 成

背 郭 堂 成 蔭 白 茅
緣 江 路 熟 俯 青 郊
榿 林 礙 日 吟 風 葉
籠 竹 和 煙 滴 露 梢
暫 止 飛 烏 將 數 子
頻 來 語 燕 定 新 巢
傍 人 錯 比 楊 雄 宅
懶 惰 無 心 作 解 嘲

杜 甫

Đường Thành 
Bối quách đường thành ấm bạch mao 
Duyên giang lộ thục phủ thanh giao 
Khải lâm ngại nhật ngâm phong diệp 
Lung trúc hòa yên trích lộ sao 
Tạm chỉ phi ô tương sổ tử 
Tần lai ngữ yến định tân sào 
Bàng nhân thác tỉ Dương Hùng trạch 
Lãn nọa vô tâm tác “Giải Trào” 

Đỗ Phủ

Nhà mới làm xong
*
Một mái tranh lưng đối hướng thành
Ven sông đường rợp cỏ tươi xanh
Rừng cây rậm lá khua trong gió
Ôm khói, sương rơi, trúc trĩu cành 
*
Cánh quạ nuôi con tạm ngừng bay
Yến liệng tới lui tổ mới xây
Chòm xóm ví von Dương Hùng trước
Nghe bỏ ngoài tai chả giãi bày
*
NguyễnTâmHàn

杜甫 

佳人 

絕代有佳人, 幽居在空谷; 
自云良家子, 零落依草木。 
關中昔喪亂, 兄弟遭殺戮; 
官高何足論? 不得收骨肉。 
世情惡衰歇, 萬事隨轉燭。 
夫婿輕薄兒, 新人美如玉。 
合昏尚知時, 鴛鴦不獨宿; 
但見新人笑, 那聞舊人哭? 
在山泉水清, 出山泉水濁。 
侍婢賣珠迴, 牽蘿補茅屋。 
摘花不插髮, 采柏動盈掬。 
天寒翠袖薄, 日暮倚修竹。

Giai nhân 

Tuyệt đại hữu giai nhân 
U cư tại không cốc 
Tự vân lương gia tử 
Linh lạc y thảo mộc 
Quan Trung tích táng loạn 
Huynh đệ tao sát lục 
Quan cao hà túc luận 
Bất đắc thu cốt nhục 
Thế tình ố suy yết 
Vạn sự tùy chuyển chúc 
Phu tế khinh bạc nhi 
Tân nhân mỹ như ngọc 
Hợp hôn thướng tri thời 
Uyên ương bất độc túc 
Ðản kiến tân nhân tiếu 
Ná văn cựu nhân khốc 
Tại sơn tuyền thủy thanh 
Xuất sơn tuyền thủy trọc 
Thị tỳ mãi châu hồi 
Khiên la bổ mao ốc 
Trích hoa bất sáp phát 
Thái bách động doanh cúc 
Thiên hàn thúy tụ bạc 
Nhật mộ ỷ tu trúc
ĐỗPhủ

Giai nhân
*
Người đâu dáng vẻ trang đài
Âm thầm nét ngọc giữa nơi núi rừng
Vốn nhà khá giả …
bỗng dưng
Cuộc đời trôi giạt đến vùng cỏ cây
Quan Trung buổi loạn trước đây
Anh em yểu thác, phận nầy long đong
Quan quyền chi … tủi cho lòng
Chết nằm thịt rữa, người không đoái hoài
Tình đời bạc bẽo như vôi
Thân giờ đốm lửa giữa trời phong ba
Đường tình cũng lắm xót xa
Chồng thương người mới nõn nà xinh tươi
Hợp hôn hoa nở cùng thời
Chim uyên ương cũng có đôi xum vầy
Tiếng cười hạnh phúc mê say
Chẳng nghe tiếng nấc phận này cô đơn
Suối trong lúc chẩy từ nguồn
Qua vùng núi biếc nước tuôn đục ngầu
Bán ngọc về, bé gái hầu
Ôm theo lá dại vá đầu mái tranh
Ngắt hoa…
ngơ ngẩn…
vô tình
Bứt hoài lá Bách quanh mình chẳng thôi 
Trời trở lạnh
nắng chiều phai
Tựa lưng bên trúc trông vời xa xăm
*
NguyễnTâmHàn

江畔独步寻花 

杜甫 

黄四娘家花满蹊,千朵万朵压枝低。 
留连戏蝶时时舞,自在娇莺恰恰啼。 

Giang bạn độc bộ tầm hoa 

Hoàng tứ nương gia hoa mãn khê 
Thiên đóa vạn đóa áp chi đê 
Lưu liên hí điệp thời thời vũ 
Tự tại kiều oanh kháp kháp đê 
Đỗ Phủ
Dịch Nghĩa

Hoa nở đầy ven suối cạnh nhà Hoàng Tứ 
Ngàn vạn đóa ép cành lá trĩu xuống thấp 
đàn bướm múa lượn như lưu luyến 
Chim oanh hót thánh thót ra chiều thỏa thích.

Thả bộ ngắm hoa

Hoàng trang ven suối hoa khoe sắc
Vạn đoá đua chen nở trĩu cành
Bướm thắm quẩn quanh chừng quyến luyến
Líu lo đua hót lũ chim oanh
*
NguyễnTâmHàn

江行
無題 
錢起 
睡穩葉舟輕 
風微浪不惊 
任君蘆葦岸 
終夜 動秋聲 
Giang hành,
vô đề 
Tiền Khởi 
Thụy ổn, diệp chu khinh , 
Phong vi, lãng bất kinh . 
Nhậm quân lô vĩ ngạn , 
Chung dạ động thu thanh . 
Đi trên sông Giấc nồng thuyền nhẹ lướt nhanh
Thảnh thơi trong dạ, gió lành, sóng yên
Mặc bờ lau sậy ngả nghiêng
Thâu đêm man mác mạn thuyền tiếng ThuNguyễnTâmHàn

三年别 
白居易 

悠悠一別已三年, 
相望相思明月天。 
腸斷青天望明月, 
彆來三十六回圓。 

Tam niên biệt 

Bạch Cư Dị 

Du du nhất biệt dĩ tam niên, 
Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên. 
Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt, 
Biệt lai tam thập lục hồi viên. 

Ba năm xa cách

Biền biệt ba năm xa cách nhau
Nhớ thương trăng tỏ chỉ thêm đau
Nhìn ánh trăng lan mà đứt ruột
Ba mươi sáu bận ngắm trăng sầu

NguyễnTâmHàn

宿駱氏亭寄懷崔雍崔袞 
李商隱 

竹塢無塵水檻清, 
相思迢遞隔重城。 
秋陰不散霜飛晚, 
留得枯荷聽雨聲。 

Túc Lạc Thị đình ký hoài Thôi Ung Thôi Cổn 

Lý Thương Ẩn 

Trúc ổ vô trần thuỷ hạm thanh, 
Tương tư điều đệ cách trùng thành. 
Thu âm bất tản sương phi vãn, 
Lưu đắc khô hà thính vũ thanh. 

Ở đình Lạc Thị, nhớ Thôi Ung và Thôi Cổn 

Bên hiên khóm trúc đối gương
Thành xa cách trở … niềm thương nhớ nhiều
Thu dịu mát, tản sương chiều
Lá sen tàn tạ … âm đều tiếng mưa

NguyễnTâmHàn

早秋山居 
溫庭筠 

山近覺寒早, 
草堂霜氣晴。 
樹凋窗有日, 
池滿水無聲。 
果落見猿過, 
葉乾聞鹿行。 
素琴機慮靜, 
空伴夜泉清。 

Tảo thu sơn cư 

Ôn Đình Quân 

Sơn cận giác hàn tảo, 
Thảo đường sương khí tình. 
Thụ điêu song hữu nhật, 
Trì mãn thuỷ vô thanh. 
Quả lạc kiến viên quá, 
Diệp can văn lộc hành. 
Tố cầm cơ lự tĩnh, 
Không bạn dạ tuyền thanh.

Thu sớm ở trong núi 

Lạnh về sớm chốn sơn khê
Mái căn nhà cỏ lê thê sương mờ
Lá khô ômg nắng song thưa
Mặt ao tĩnh lặng như tờ, nước cao
Vượn về nhặt quả lao xao
Bước chân hươu lá xạc xào gần quanh
Tiếng đàn rung, dạ yên bình
Bạn cùng suối nước đêm thanh mơ hồ

NguyễnTâmHàn

送人還京 
岑參 

匹馬西從天外歸, 
揚鞭只共鳥爭飛。 
送君九月交河北, 
雪裡題詩淚滿衣。 

— Tống nhân hoàn kinh — 

Sầm Tham 

Thất mã tây tòng thiên ngoại quy, 
Dương tiên chỉ cộng điểu tranh phi. 
Tống quân cửu nguyệt Giao Hà bắc, 
Tuyết lý đề thi lệ mãn y. 

Tiễn người về kinh đô 

Giữa trời vó sải về Tây
Vung roi thúc ngựa tranh tài cùng chim
Giao Hà tháng chin sao quên
Thơ đề trên tuyết … áo hoen lệ sầu

NguyễnTâmHàn

落花 
嚴惲 

春光冉冉歸何處? 
更向花前把一杯。 
盡日問花花不語, 
為誰零落為誰開? 

Lạc hoa 

Nghiêm Uẩn 

Xuân quang nhiễm nhiễm quy hà xứ? 
Cánh hướng hoa tiền bả nhất bôi. 
Tận nhật vấn hoa, hoa bất ngữ, 
Vị thuỳ linh lạc vị thuỳ khai? 

Hoa rơi 

Tiết Xuân dịu mát về đâu nhỉ ?
Nâng chén rượu mời tới trước hoa
Hỏi mãi cả ngày hoa chả nói
Vì đâu héo rụng, vì đâu qua ?

NguyễnTâmHàn

同溫丹徒登萬歲樓 
皇甫冉 

高樓獨立思依依, 
极浦遙山合翠微。 
江客不堪頻北顧, 
塞鴻何事复南飛。 
丹陽古渡寒煙積, 
瓜步空洲遠樹稀。 
聞道王師猶轉戰, 
誰能談笑解重圍。 

 Đồng Ôn Đan Đồ đăng Vạn Tuế lâu 

Hoàng Phủ Nhiễm 

Cao lâu độc lập tứ y y, 
Cực phố dao sơn hợp thuý vi. 
Giang khách bất kham tần bắc cố, 
Tái hồng hà sự hạ nam phi. 
Đan Dương cổ độ hàn yên tích, 
Qua Bộ không châu viễn thụ hy. 
Văn đạo vương sư do chuyển chiến, 
Thuỳ năng đàm tiếu giải trùng vi? 

Cùng Ôn Đan Đồ lên lầu Vạn Tuế 

Niềm riêng canh cánh bên lầu
Non xa, bến thằm một mầu biếc xanh
Trên sông vọng Bắc không đành
Chim Hồng hẳn chẳng vô tình xuôi Nam
Đan Dương khói lạnh lan tràn
Qua Bộ thưa thớt những tàn lá xanh
Giữa vùng khói lửa đao binh
Ai cười giải cứu được thành chẳng hay ?

NguyễnTâmHàn

遣悲懷

其二 
元稹 

昔日戲言身後事, 
今朝都到眼前來。 
衣裳已施行看盡, 
針線猶存未忍開。 
尚想舊情憐婢僕, 
也曾因夢送錢財。 
誠知此恨人人有, 
貧賤夫妻百事哀。 

 Khiển bi hoài

kỳ 2 

Nguyên Chẩn 

Tích nhật hí ngôn thân hậu sự, 
Kim triêu đô đáo nhãn tiền lai. 
Y thường dĩ thí hành khan tận, 
Châm tuyến do tồn vị nhẫn khai. 
Thượng tưởng cựu tình liên tỳ bộc, 
Dã tằng nhân mộng tống tiền tài. 
Thành tri thử hận nhân nhân hữu, 
Bần tiện phu thê bách sự ai. 

Giải nỗi sầu nhớ kỳ 2 

Vẫn thường vãn việc ngày sau
Giờ thì chuyện ấy chả đâu xa gì
Áo quần giữ lại làm chi
Nhớ thương kim chỉ cho đi sao đành
Dù nô tì … đã quẩn quanh
Mông về, vàng mã thương tình đốt cho
Tử ly ai thoát bao giờ
Vì nghèo tình nghĩa phu thê tủi buồn

NguyễnTâmHàn

寄家人 
缺名
中囻 握筆题詩易 
荷戈征戍难 
慣従鴛被緩 
怯向雁門寒 
瘦盡宽衣帶 
啼多漬枕簟 
試留青黛著 
囘日畫盾看 
Ký gia nhân 
Khuyết danh
Trung quốc Ác bút đề thi dị, 
Hạ qua chinh thú nan. 
Quán tòng Uyên bị hoãn, 
Khiếp hướng Nhạn môn hàn. 
Sấu tận khoan y đái, 
Đề đa tý chẩm đan (điệm). 
Thí lưu thanh đại trước, 
Hồi nhật hoạ my khan. Gởi người nhà Việc thơ với bút dễ thôi 
Khó chăng là truyện kiếp đời chinh nhân 
Chăn Uyên quen thói ấm thân 
Đường qua ải Nhạn ngại ngần lạnh tê 
Gầy còm đai, áo lê thê 
Lệ buồn thấm ướt dầm dề chiếu chăn 
Cất đi thuốc kẻ mày đen 
Ngày về anh vẽ nét duyên tạ tìnhNguyễn Tâm Hàn
客中月 
白居易 客從江南來, 
來時月上弦。 
悠悠行旅中, 
三見清光圓。 
曉隨殘月行, 
夕與新月宿。 
誰謂月無情, 
千里遠相逐。 
朝發渭水橋, 
暮入長安陌。 
不知今夜月, 
又作誰家客? — Khách trung nguyệt — Bạch Cư Dị Khách tòng Giang Nam lai, 
Lai thì nguyệt thượng huyền. 
Du du hành lữ trung, 
Tam kiến thanh quang viên. 
Hiểu tuỳ tàn nguyệt hành, 
Tịch dữ tân nguyệt túc. 
Thuỳ vị nguyệt vô tình, 
Thiên lý viễn tương trục. 
Triêu phát Vị Thuỷ kiều, 
Mộ nhập Trường An mạch. 
Bất tri kim dạ nguyệt, 
Hựu tác thuỳ gia khách? Vầng trăng đất khách Khách từ Giang Nam tới
Lúc mới tuần trăng non
Trên bước đường vạn dặm
Đã ba độ trăng tròn
Khi dưới trăng đang lặn
Lúc giữa cảnh trăng lên
Trăng đâu vô tình nhỉ ?
Ngàn dặm vẫn bên trên
Sáng nơi cầu sông Vị
Chiều dong duổi Trưòng An
Biết đêm nay còn sáng
Nơi nhà ai trăng lanNguyễnTâmHàn
戲題新栽薔薇 
白居易 移根易地莫憔悴, 
野外庭前一种春。 
少府無妻春寂寞, 
花開將爾當夫人。 — Hí đề tân tài tường vi — Bạch Cư Dị Di căn dịch địa mạc tiều tuỵ, 
Dã ngoại đình tiền nhất chủng xuân. 
Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch, 
Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân. Đề bỡn cây tường vi mới trồng Đất đổi, rễ dời tiều tụy chi
Trong sân, ngoài nội cũng Xuân thì
Này … quan Thiếu phủ còn chưa vợ
Nở … chức phu nhân ai ngoài miNguyễnTâmHàn
江邊柳 
雍裕之 嫋嫋古堤邊, 
青青一樹煙。 
若為絲不斷, 
留取繫郎船。 Giang biên liễu 
Ung Dụ Chi Niệu niệu cổ đê biên, 
Thanh thanh nhất thụ yên. 
Nhược vi ty bất đoạn, 
Lưu thủ hệ lang thuyền. Liễu bên sông Ven đê dáng liễu yêu kiều
Xanh xanh mầu khói lam chiều đẹp thay
Phải tơ dài mãi tháng ngày
Thuyền chàng em cột lại đây với tình
Nguyễn Tâm Hàn
同溫丹徒登萬歲樓 
皇甫冉 高樓獨立思依依, 
极浦遙山合翠微。 
江客不堪頻北顧, 
塞鴻何事复南飛。 
丹陽古渡寒煙積, 
瓜步空洲遠樹稀。 
聞道王師猶轉戰, 
誰能談笑解重圍。 — Đồng Ôn Đan Đồ đăng Vạn Tuế lâu — Hoàng Phủ Nhiễm Cao lâu độc lập tứ y y, 
Cực phố dao sơn hợp thuý vi. 
Giang khách bất kham tần bắc cố, 
Tái hồng hà sự hạ nam phi. 
Đan Dương cổ độ hàn yên tích, 
Qua Bộ không châu viễn thụ hy. 
Văn đạo vương sư do chuyển chiến, 
Thuỳ năng đàm tiếu giải trùng vi? Cùng Ôn Đan Đồ lên lầu Vạn Tuế Niềm riêng canh cánh bên lầu
Non xa, bến thằm một mầu biếc xanh
Trên sông vọng Bắc không đành
Chim Hồng hẳn chẳng vô tình xuôi Nam
Đan Dương khói lạnh lan tràn
Qua Bộ thưa thớt những tàn lá xanh
Giữa vùng khói lửa đao binh
Ai cười giải cứu được thành chẳng hay ?NguyễnTâmHàn
戲贈杜甫 
李白 飯顆山頭逢杜甫, 
頭戴笠子日卓午。 
借問別來太瘦生, 
總為從前作詩苦。 Hý tặng Đỗ Phủ Lý Bạch Phạn Khoả sơn đầu phùng Đỗ Phủ, 
Đầu đới lạp tử nhật trác ngọ. 
Tá vấn biệt lai thái sấu sinh, 
Tổng vị tòng tiền tác thi khổ. Đùa tặng Đỗ Phủ Đầu Phan gặp bác Đỗ rồi
Lui cui nón lá lúc trời giữa trưa
Bác gầy hơn lần gặp xưa
Chắc là lại khổ vì thơ chứ gìNguyễn Tâm Hàn
河中府崇福寺觀花 
盧綸 聞道山花如火紅 
平明登寺已經風 
老僧無見亦無說 
應與春人心不同 Hà Trung Phủ Sùng Phúc Tự Quan Hoa Lư Luân Văn đạo sơn hoa như hỏa hồng 
Bình minh đăng tự dĩ kinh phong 
Lão tăng vô kiến diệc vô thuyết 
Ưng dữ xuân nhân tâm bất đồng Lên Chùa Sùng Phúc Ở Phủ Hà Trung Xem Hoa Lời đồn hoa nở rực hồng
Sáng tinh mơ ghé cuồng phong cuốn rồi
Chẳng gặp sư, chẳng một lời
Hẳn chùa không hợp tâm người thanh xuânNguyễn Tâm Hàn

Khuyến Nhân Lư Sơn Độc Thư

Nguyên tác: Lý Quần Ngọc

勸人廬山讀書 
李群玉 

憐君少雋利如鐸 
氣爽神清刻骨聰 
片玉苦磨唯轉瑩 
莫辭雲水入廬山 

Khuyến Nhân Lư Sơn Độc Thư 

Lý Quần Ngọc 

Lân quân thiểu tuấn lợi như đạc 
Khí sảng thần thanh khắc cốt thông 
Phiến ngọc khổ ma duy chuyển oánh 
Mạc từ vân thủy nhập Lư sơn 

Khuyên Người Vào Núi Lư Đọc Sách 

Chẳng được tài giỏi như người
Dù rằng cốt cách cũng nòi thông minh
Ngọc kia không giũa sao thành
Đường mây sao chẳng ẩn mình núi Lư

NguyễnTâmHàn -2012

Chung Nam SơnNguyên tác: Vương Duy

終南山 
王維 

太乙近天都, 
連山到海隅. 
白雲迴望合, 
青靄入看無. 
分野中風變, 
陰晴眾壑殊. 
欲投人處宿, 
隔水問樵夫. 

Chung Nam Sơn 

Vương Duy 

Thái ất cận thiên đô, 
Liên sơn đáo hải ngung. 
Bạch vân hồi vọng hợp, 
Thanh ải nhập khan vô. 
Phân dã trung phong biến, 
Âm tình chúng hác thù. 
Dục đầu nhân xứ túc, 
Cách thủy vấn tiều phu. 

Núi Chung Nam 

Thái Ất gần kinh đô
Núi dừng lại bên hồ
Dáng xanh trong mây trắng
Tới … phảng phất như mơ 
Vào sâu cảnh đổi thay
Nét khác biệt đó đây
Muốn tìm nơi nghỉ tạm
Vọng hỏi tiều bến này

NguyễnTâmHàn – Sept./2012

* Núi Chung Nam còn được gọi với tên khác là nuí Thái Ất

Chu Nguyệt Đối Dịch Cận Tự

Nguyên tác: Đỗ Phủ

舟月對驛近寺 
杜甫 

更深不假熾, 
月朗自明船. 
金剎青楓外, 
朱樓白水邊. 
城烏啼眇眇, 
野鷺宿娟娟. 
皓首江湖客, 
鉤簾獨未眠. 

Chu Nguyệt Đối Dịch Cận Tự 

Đỗ Phủ 

Canh thâm bất giả chúc, 
Nguyệt lãng tự minh thuyền. 
Kim sát thanh phong ngoại, 
Chu lâu bạch thủy biên. 
Thành ô đề miểu miểu, 
Dã lộ túc quyên quyên 
Hạo thủ giang hồ khách, 
Câu liêm độc vị miên. 

Thuyền Trăng Trước Quán Dịch Gần Chùa 

Giả như không đuốc soi đêm
Ảo huyền ánh tỏ bóng thuyền lồng trăng
Ngôi chùa vàng giữa hàng phong
Lầu son soi bóng nước dòng trắng tinh
Quạ kêu khe khẽ trên thành
Con cò đồng ngủ một mình dễ thương
Khách giang hồ tóc như sương
Canh khuya dỗ giấc dễ thường chưa yên

NguyễnTâmHàn – Sept./2012

Mẫu Đơn

Nguyên tác: Tiết Đào

牡丹 
薛濤 

去春零落暮春時, 
淚濕紅箋怨別離。 
常恐便同巫峽散, 
因何重有武陵期。 
傳情每向馨香得, 
不語還應彼此知。 
只欲欄邊安枕席, 
夜深閒共說相思。 

Mẫu Đơn 

Tiết Đào 

Khứ xuân linh lạc mộ xuân thì, 
Lệ thấp hồng tiên oán biệt ly. 
Thường khủng tiện đồng Vu giáp tán, 
Nhân hà trùng hữu Vũ Lăng kỳ ? 
Truyền tình mỗi hướng hinh hương đắc, 
Bất ngữ hoàn ưng bỉ thử tri. 
Chỉ dục lan biên an chẩm tịch, 
Dạ thâm nhàn cộng thuyết tương tư. 

Hoa Mẫu Đơn 

Xuân qua hoa úa tàn theo
Giấy hồng nuối tiếc hoen bao lệ tình
Thoảng mây Vu Giáp buồn tênh
Vũ Lăng nào biết mộng mình còn chăng
Hương đưa cảm nỗi niềm mang
Người đây hoa đấy duyên nàng tình ta
Lan can trải chiếu bên hoa
Lời yêu tha thiết nhạt nhoà trời đêm

NguyễnTâmHàn May-17-2013

Leave a comment