** Tập 2 Đường Thi – SNHT

a non bo 02 b

Nguyễn Tâm HànNguyenTamHan # Thursday, November 13, 2008 4:15:23 AM

感遇 
蘭若自春夏
芊蔚何青青
幽獨空林色
丹蕤冒紫莖
遲遲白日晚
嫋嫋秋風生
薉花盡搖落
芳意更何成
陳子昂
*
Cảm Ngộ
*
Lan nhược tự xuân hạ
Thiên uất hà thanh thanh
U độc không lâm sắc
Chu nhuy mạo tử hành
Trì trì bạch nhật vãn
Niệu niệu thu phong sinh
Tuế hoa tận dao lạc
Phưong ý cánh hà thành.
Trần Tử Ngang
*
Dich Nghĩa:
(cảm xúc trước cảnh ngộ)
(cây hoa lan từ múa xuân qua mùa hạ)
(thật là tươi tốt, xanh ngát)
(một mình phô sắc thắm trong rừng vắng)
(hoa đỏ vươn lên từ nhánh tía)
(những ngày hè qua chầm chậm)
(gió thu đã thổi phất phơ)
(các hoa nở theo mùa thảy đều rơi rụng)
(rốt cục hương thơm thành cái gì?)
********
Cảm Xúc Trước Cảnh Ngộ
 *
Qua hai mùa xuân hạ
Sắc lan tươi thắm xinh
Cô đơn khoe sắc riêng mình
Bên rừng hoa đỏ phủ cành tím tươi
Hè trôi đi chầm chậm
Gió Thu lảng vảng rồi
Cánh hoa tàn tạ rụng rơi
Mùi thơm hương cũ mai rồi ra sao?
SongNguyễn HànTú
unnamed
感作 
文章千古事
得失寸心知
作者皆殊別
聲名豈浪垂杜甫
Cảm Tác
*
Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tri
Tác giả giai thù biệt
Thanh danh khởi lãng thùy.
Đỗ Phủ
*
Dich Nghia
(viết ra theo cảm xúc)
(sự nghiệp văn chương tự ngàn xưa)
(thành hay không thành tự trong lòng đã biết rồi)
(các người viết mỗi người mỗi lối viết riêng)
.(tiếng thơm để lại há do khinh xuất mà có sao?)
*******
Cảm Tác
*
Bài 1
Văn chương lưu truyền mãi
Thành đạt thật do tâm
Văn mỗi người mỗi vẻ
Chớ coi thường tiếng tăm
***
Bài 2
Văn chương để mãi đến ngàn sau
Tim óc kết thành phải dễ đâu
Trong chốn văn chương người mỗi vẻ
Danh đến muôn đời ráng chuốt chau
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

鷓 鴣
暖 戲 煙 蕪 錦 翼 齊
品 流 應 得 近 山 雞
雨 昏 青 草 湖 邊 過
花 落 黃 陵 廟 裡 啼
游 子 乍 聞 征 袖 濕
佳 人 纔 唱 翠 眉 低
相 呼 相 喚 湘 江 曲
苦 竹 叢 深 春 日 西
鄭 谷
*
Chá cô 
*
Noãn hý yên vô cẩm dực tề 
Phẩm lưu ưng đắc cận sơn kê 
Vũ hôn thanh thảo hồ biên quá 
Hoa lạc Hoàng Lăng miếu lý đề 
Du tử sạ văn chinh tụ thấp 
Giai nhân tài xướng thúy mi đê 
Tương hô tương hoán Tương Giang khúc 
Khổ trúc tùng thâm xuân nhật tê 
 Trịnh Cốc
 *
(chim chá cô)
(xòe đôi cánh gấm, chim vui đùa trong đám cỏ mờ sương khói)
(phẩm cách giống như các loại gà hoang gần núi)
(chim bay lại đám cỏ xanh bên bờ hồ dưới mưa mù mịt)
(mà kêu trước miếu Hoàng Lăng đầy hoa rụng)
(kẻ lãng du vừa nghe thấy tiếng kêu đã rơi lệ ướt tay áo)
(giai nhân cất lời than thở, khép mi lại)
(líu lo gọi nhau trên khúc sông Tương này)
(mặt trời xuân xế tây in bóng rặng trúc cằn cỗi rậm rạp)
Ghi chú: Chá cô, giống như chim đa đa, gà gô…của ta; chúng hay kêu, giọng rất ai oán
Hoàng Lăng Miếu, miếu thờ hai Hoàng hậu của vua Nghiêu (thời thượng cổ Trung Hoa) lập ngay tại chỗ 2 bà bị chết đuối, bên bò sông Tương, nay thuộc huyện Tương Âm, tỉnh Hà Nam.
*
Chá Cô
*
Chim nhẩy nhót trên cỏ hoang sương phủ
Cánh giương cao tựa gà núi oai hùng
Bay qua bờ giữa mưa gió mịt mùng
Kêu trong miếu đầy hoa rơi lả tả
Khách đa tình nghe tiềng chim ướt lệ
Qua giọng buồn mỹ nữ rủ mi xanh
Khúc sông Tương chim réo gọi duyên tình
Trúc nghiêng ngả cảnh trời tây bóng xế
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

至 德 二 載, 甫 自 京 金
光 門 出 間 道 歸 鳳 翔.
乾 元 初, 從 左 拾 遺, 移
華 洲 掾…… 與 親 故 別,
因 出 此 門 有 悲 往
事.此 道 昔 歸 順
西 郊 胡 正 繁
至 金 殘 破 膽
應 有 未 招 魂
近 侍 歸 京 邑
移 官 起 至 尊
無 才 日 衰 老
駐 馬 望 千 門
杜 甫
*
Chí Đức Nhị Tải, Phủ Tự Kinh Kim Quang 
*
Môn, Xuất Gian Đạo Quy Phụng Tường 
Càn Nguyên Sơ, Tòng Tả Thập Di, Di 
Hoa Châu Duyện…Dữ Thân Cố Biệt 
Nhân Xuất Thử Môn Hữu Bi 
Vãng Sự Thử đạo tích quy thuận 
Tây giao Hồ chính phồn 
Chí kim tàn phá đảm 
Ưng hữu vị chiêu hồn 
Cận thị quy kinh ấp 
Di quan khởi chí tôn 
Vô tài nhật suy lão 
Trú mã vọng thiên môn 
 Đỗ Phủ
*
(năm Chí Đức thứ 2 [756] Phủ ta từ kinh đô [bị giặc chiếm]
trốn khỏi cửa Kim Quang đến [triều kiến vua mới ở] Phụng
Tường. Năm đầu Càn Nguyên [758], từ chức Tả Thập Di 
ta bị giáng xuống làm quan nhỏ ở Hoa Châu, nay cùng người
thân từ biệt, nhân qua cửa này, chạnh lòng nhớ chuyện cũ)
(chỗ này [kinh đô] xưa hàng giặc)
(giặc Hồ đóng đông đảo ở phía tây)
(đến nay ta còn sợ vỡ mật)
(hồn vía như vẫn chưa hoàn)
(khi vua sủng ái, ta được về thăm nhà)
(nay vua đày ta làm quan nhỏ nơi xa)
(tài không có, sức mỗi ngày mỗi yếu)
(ta dừng ngựa nhìn nhà nhà [từ biệt])
 *
Qua Cửa Kim Quang
*
Xưa kia cũng tại nơi đây
Giặc Hồ đóng ở phía tây ngập tràn
Nghĩ nay còn sợ bở gan
Hồn như vẫn chửa thập toàn an nhiên
Xưa vua thưong được bình yên
Nay theo quân lệnh về miền xa xôi
Tài thô, bệnh tật rã rời
Kéo cương ghìm ngựa ngậm ngùi từ ly
SongNguyễn HànTú

unnamed

折楊柳枝詞 
枝枝交影鎖長門
嫩色曾沾雨露恩
鳳輦不來春欲盡
空留鶯語到黃昏
段成式
Chiết Dương Liễu Chi Từ
*
Chi chi giao ảnh tỏa Trường Môn
Nộn sắc tằng triêm vũ lộ ân
Phụng liễn bất lai xuân dục tận
Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn
*
Đoàn Thành Thức
Dich nghĩa
*
(bài ca “Cành Dương Liễu Gãy”)
([cung nữ như]những cành liễu phủ kín cung Trường Môn)
(lúc còn tươi trẻ từng được hưởng ơn mưa móc [của vua])
(xe phượng [chở vua] không đến, xuân sắc gần tàn phai)
(chiều đến, chỉ còn tiếng chim oanh trên không trung)
*******
Cành Dương Liễu Gãy
***
Phủ kín Trường Môn liễu thắm màu
Nét thơ xưa đã thấm ơn sâu
Xuân gần tàn úa, không xe phượng
Vẳng tiếng chim oanh giọng nhuốm sầu
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

昭君詞 
漢使卻回憑寄語
黃金何日贖蛾眉
君王若問妾顏色
莫道不如宮裏時
白居易
*
Chiêu Quân Từ
***
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ
Hoàng kim hà nhật thục nga mi
Quân vương nhược vần thiếp nhan sắc
Mạc đạo bất như cung lý thời.
***
Bạch Cư Dị
Dich nghĩa:
(Chiêu Quân nhắn lời)
(Sứ giả [nhà Hán} có về nước, xin cho nhắn lời)
(đến ngày nào mới đem vàng tới chuộc thiếp [mày ngài] về)
(nếu Đức Vua có hỏi tới nhan sắc của thiếp)
(xin đừng nói là thiếp không được như hồi ở trong cung)
***
Ghi chú: Chiêu Quân là tự của Vương Tường, người đương thời với Hán Nguyên Đế (thế kỷ thứ 1 trước công nguyên).
Là người có sắc nước hương trời,
được tuyển vào cung, nhưng con nhà nghèo, không có tiền đút lót
thái giám, nên không được vua biết đến. Khi Hung Nô đòi mỹ nữ, 
nàng lại bị chọn làm “vật hi sinh”. Lúc vua triệu vào để từ biệt 
mới biết đến nàng thì đã trễ. Nàng chết trên đất Hung Nô,
mộ tọa lạc tại huyện Tuy Quy, tỉnh Tuy Viễn ngày nay.
Nàng để lại nhạc khúc cho đàn tì bà, gửi vào đó tất cả nỗi niềm bi ai của minh.
***
Chiêu Quân Nhắn Lời
***
Này Hán sứ người về cho thiếp nhắn
Xin vua đem vàng bạc chuộc tôi về
Nếu Ngài truy nhan sắc có như xưa
Xin đừng nói không bằng trong cung nhé
***
SongNguyễn HànTú
 unnamed
征人怨 
歲歲金河復玉關
朝朝馬策與刀環
三春白雪歸青塚
萬里黃河繞黑山
柳中庸
*
Chinh Nhân Oán
*
Tuế tuế Kim hà phục Ngọc quan
Triêu triêu mã sách dữ đao hoàn
Tam xuân bạch tuyết quy Thanh Trũng 
Vạn lý Hoàng Hà nhiễu Hắc San
*
Liễu Trung Dung
*
Dich Nghia
(nỗi oán của người lính trận)
(năm lại năm, hết sông Kim tới ải Ngọc)
(sáng tới sáng, nào roi ngựa, nào đao cung)
(ba năm về Thanh Trũng đầy tuyết trắng) 
(vượt cả vạn dặm sông Hoàng Hà chảy quanh Hắc San)
*******
Bài 1
Hết vùng ải Ngọc tới Kim Hà
Sớm hôm lưng ngựa giữa can qua
Ba năm tuyết trắng trên Thanh Trũng
Núi Hắc, sông Hoàng quyện dặm xa
***
Bài 2
Kim Hà rồi tới Ngọc Quan
Gươm đao lưng ngựa võ vàng sớm hôm
Ba năm Thanh Trũng tuyết dồn
Sông Hoàng, núi Hắc quyện muôn dặm dài
***
SongNguyễn HànTú
unnamed
舟中夜雪有懷 
盧于四侍御弟
朔風吹桂水
大雪夜紛紛
暗度南樓月
寒深北渚雲
燭斜初近見
舟重竟無聞
不識山陰道
聽雞更憶君
杜甫
*
Chu Trung Dạ Tuyết Hữu Hoài
Lư Vu Tứ Thị Ngự Đệ
***
Sóc phong xuy Quế thủy
Đại tuyết dạ phân phân
Ám độ nam lâu nguyệt
Hàn thâm bắc chử vân
Chúc tà sơ cận kiến
Chu trọng cánh vô văn
Bất thức sơn âm đạo
Thính kê cánh ức quân
Đỗ Phủ
*
Dich nghia:
(đêm có đổ tuyết, ngồi trong thuyền nhớ em làm quan Thị Ngự, tên là Lư Vu Tứ)
(gió bắc thỗi trên sông Quế)
(ban đêm, tuyết rơi lớn, tới tấp)
(mặt trăng khuất sau tòa lầu cao phía nam)
(mây ở bãi sông lạnh lẽo phía bắc)
(chỉ thấy qua loa vì ánh đèn soi nghiêng)
(thuyền đông người quá, chẳng nghe gì được)
(không biết gì về con đường bên mặt bắc dãy núi)
(nghe gà gáy lại càng nhớ em)
***
Nhớ Lư Vu Tứ
*
Sông Quế heo may quá lạnh lùng
Tuyết rơi mờ mịt khắp không trung
Lầu nam một mảnh trăng mờ nhạt
Bãi bắc mây giăng lạnh tái lòng
Nhớ buổi bên đèn nghiêng gặp gỡ
Chẳng nghe gì được lúc thuyền đông
Núi bên sườn bắc đường chưa biết
Nghe tiếng gà khuya dạ não nùng
*
SongNguyễn HànTú
unnamed
舟中夜雨 
江雲暗悠悠
江風冷修修
夜雨滴般背
夜浪打般頭
般中有病客
左降向江州
白居易
*
Chu Trung Dạ Vũ
*
Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu
*
Bạch Cư Dị
*
Dich nghia:
(đêm mưa ở trong thuyền)
( trên sông mây u ám)
(gió lạnh thổi vù vù)
(mưa đêm dột qua mui thuyền)
(sóng tung tóe trước mũi thuyền)
(thuyền chở một người khách âu sầu)
(vì bị giáng chức, đày đi Giang Châu)
***
Ghi chú: Năm 814, Bạch Cư Dị 38 tuổi, đang giữ chức Thái tử tả tán thiện ở kinh đô. Nhưng có ngườI đặt điều mưu hại, ông bị biềm ra làm Tư mã tạ Giang Châu (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang tây ngày nay).
*******
Mưa Đêm Trên Thuyền
*
Trời vần vũ ngập mây mù
Gió gầm cuồng loạn vù vù trên sông
Qua mui mưa dột ròng ròng
Rì rào sóng vỗ ngang hông, mũi thuyền
Trong khoang khách ốm ưu phiền
Giáng làm quan mọn tận miền Giang Châu
*
Songnguyễn HànTú
unnamed
諸將 
其一
落陽宮殿化為烽
休道秦關百二重
滄海未全歸禹貢
薊門何處覓堯封
朝廷袞職誰爭補
天下軍儲不自供
稍喜臨邊王將國
肯銷金甲事春農杜甫
*
Chư Tướng
kỳ nhất 
Lạc Dương cung điện hoá vi phong
Hưu đạo Tần quan bách nhị trùng
Thương Hải vị toàn quy Vũ cống
Kế Môn hà xứ mích Nghiêu phong
Triều đình cổn chức thùy tranh bổ
Thiên hạ quân trừ bất tự cung
Sảo hỉ lâm biên Vương tướng quốc
Khẳng tiêu kim giáp sự xuân nông
Đỗ Phủ
*
Dich nghia
(các tướng)
(cung điện ở thành Lạc Dương ngập trong khói lửa)
(hết còn bảo cửa ải Tần là nơi hiểm yếu nữa)
(đất Thương Hải chưa hoàn toàn dâng cho vua Vũ)
(miền Kế Môn nào đã phong cho vua Nghiêu đâu
(chức tước ở triều đình ai đang tranh dành nhau?)
(binh sĩ trong nước chưa đủ số dùng được)
(may là có Tướng quân họ Vương ở biên cương)
(cho rèn binh khí thành nông cụ làm vụ lúa xuân)
*******
Chư Tướng
*
kỳ 1
Thành Lạc Dương ngút trời khói lửa
Ải Tần đâu phải chổ hiễm nghèo
Đất Thương ắt đã thuận theo
Kế Môn chưa hẳn thuộc Nghiêu thủa nào
Nơi triều chính công hầu dành dựt
Quân giữ thành chả được bao nhiêu
May Vương tướng quốc mưu cao
Lệnh truyền đao, kiếm dùng vào vụ xuân
***
SongNguyễn HànTú
unnamed
諸將 
其二
迴首扶桑銅柱標
冥冥氛祲未全銷
越常翡翠無消息
南海明珠失寂寥
殊錫曾為大司馬
總戎皆插侍中貂
炎風朔雪天王地
只在忠臣翊聖朝
杜甫
*
Chư Tướng
*
Kỳ nhị
Hồi thủ Phù Tang đồng trụ tiêu
Minh minh phân tẩm vị toàn tiêu
Việt Thường phí thúy vô tiêu tức
Nam Hải minh châu thất tịch liêu
Thù tích tằng vi đại Tư mã
Tổng nhung giai sáp thị trung diêu
Viêm phong sóc tuyết thiên vương địa
Chỉ tại trung thần dực thánh triều
*
Đỗ Phủ
Dich nghĩa
(các tướng)
(quay đầu nhìn lại cột đồng miền Phù Tang)
(thấy chướng khí u ám chưa tan hết)
(không có tin tức gì về chim bói cá đất Việt Thường)
(ngọc quý ở Nam Hải không còn thiếu vắng)
(quan chức lớn thì đã từng làm Đại tư mã)
(binh quyền đều do bọn hầu cận vua nắm giữ)
(gió nam hay tuyết bắc đâu đâu cũng là đất vua cả)
(chỉ còn trông mong vào các trung thần trong triều đình)
*******
Chư Tướng
***
Kỳ 2
Đất Phù Tang quay nhìn nơi cột đứng
Mây mịt mờ bàng bạc một màu sương
Bặt tin loài bói cá đất Việt Thưòng
Ngọc Nam Hải chắc cũng đà tìm tới
Đại Tư Mã chức quyền xưa cao vợi
Điều binh quyền để một đám thị trung
Dù gió nam hay tuyết bắc đất công
Khắp bờ cõi các trung thần giữ nước
***
SongNguyễn HànTú
unnamed
織 婦 詞 
夫 是 田 中 郎
妾 是 田 中 女
當 年 嫁 得 君
為 君秉 機 杼
筋 力 日 已 疲
不 息 窗 下 機
如 何 織 紈 素
身 著 藍 褸 衣
官 家 榜 村 路
更 索 栽 桑 樹
 孟 郊
*
Chức Phụ Từ
*
Phu thị điền trung lang
Thiếp thị điền trung nữ
Đương niên giá đắc quân
Vị quân bỉnh cơ trữ
Cân lực nhật dĩ bì
Bất tức song hạ ki
Như hà chức hoàn tố
Thân trước lam lũ y
Quan gia bảng thôn lộ
Cánh sách tài tang thụ
*
Mạnh Giao
*
Dich Nghia
(lời phụ nữ dệt cửi)
(chàng là trai cày ruộng)
(thiếp là gái cấy đồng)
(từ ngày lấy được chàng)
(vì chàng mà thiếp lo toan dệt cửi)
(gân cốt ngày càng mỏi mệt)
(làm không nghỉ khung cửi bên cửa sổ)
(nhưng sao dệt được lụa là tráng tinh) 
(mà thân mặc toàn đồ lam lũ)
(quan trên còn đang yết bảng ngoài đường)
(đòi hỏi nhà nhà phải trồng cây dâu nữa)
*****
Lời Người Dệt Vải
*
Chàng là trai đồng ruộng
Thiếp thân gái làng quê
Từ khi là dâu mới
Canh cửi vẫn giữ nghề
Sức ngày càng suy yếu
Vẫn bên khung cận kề
Lụa mình dệt trắng toát
Quần áo mặc thảm thê
Bảng quan treo đầy xóm
Bắt trồng dâu nộp về
SongNguyễn HànTú
unnamed
終 南 望 餘 雪 
終 南 陰 嶺 秀
積 雪 浮 雲 端
林 表 明 霽 色
城 中 增 暮 寒
祖 詠
*
Chung Nam Vọng Dư Tuyết
*
Chung Nam âm lĩnh tú
Tích tuyết phù vân đoan
Lâm biểu minh tễ sắc
Thành trung tăng mộ hàn.
*
Tổ Vịnh
*
Dich nghia
(ngắm tuyết chưa tan ở núi Chung Nam)
(sườn râm mát của núi Chung Nam đẹp)
(tuyết đọng giống như mây trôi)
(sau cơn mưa rừng như tươi sáng lên)
(trong thành trời chiều lạnh hơn)
Ghi chú: Chung Nam, là tên ngọn núi, ở phía nam kinh đô Trường An
*****
Tuyết Núi
*
Xa xa đỉnh núi Chung Nam
Tuyết giăng trắng ngỡ mây đan cuối trời
Mưa chừng như đã tạnh rồi
Bìa rừng rực sáng, chiều rơi lạnh lùng
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

章 臺 夜 思
 清 瑟 怨 遙 夜
嬈 絃 風 雨 哀
孤 燈 聞 楚 角
殘 月 下 章 臺
芳 草 已 云 暮
故 人 殊 未 來
鄉 書 不 可 寄
秋 雁 又 南 迴
韋 莊
Chương Đài Dạ Tứ
*
Thanh sắt oán dao dạ
Nhiễu huyền phong vũ ai
Cô đăng văn Sở giác
Tàn nguyệt há Chương Đài
Phương thảo dĩ vân mộ
Cố nhân thù vị lai
Hương thư bất khả ký 
Thu nhạn hựu nam hồi.
*
Vi Trang
*
Dich Nghia:
(đêm thao thức ở Chương Đài)
(đêm dài, tiếng đàn réo rắt như oán hận)
(dây đàn rung những âm thanh bi ai trong mưa gió)
(bên ngọn đèn leo lét thoảng nghe tiếng kèn thổi điệu Sở)
(trăng tàn hạ thấp trên lầu cổ Chương Đài)
(cỏ thơm đã tàn úa cả rồi)
(mà bạn cũ vẫn chưa trở lại)
(thư gửi về nhà không gửi đi được)
(nhằm tiết thu chim nhạn lại bay về nam
Ghi chú: Chương Đài, là tên cung điện cũ xây từ đời Tần thời Chiến Quốc, 
nay thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
*******
Nỗi Niềm Đêm Nơi Chương Đài
***
Âm nghe trách giận đêm dài
Trời khuya mưa gió ngậm ngùi đàn rung
Điệu kèn Sở gợi nhớ nhung
Chưong Đài hiu hắt giữa vùng trăng tan
Cỏ thơm sắc đã úa tàn
Bạn xưa chẳng thấy chứa chan nỗi niềm
Nhớ nhà không gửi được tin
Thu về nhạn đã xuôi miền trời nam
***
SongNguyễn HànTú
unnamed
古 別 離
欲 別 牽 郎 衣
郎 今 到 何 處
不 恨 歸 來 遲
莫 向 臨 卬 去
孟 郊
Cổ Biệt Ly
*
Dục biệt khiên lang y
Lang kim đáo hà xứ
Bất hận quy lai trì
Mạc hướng Lâm Ngang khứ
*
Mạnh Giao
Dich Nghia
(xa nhau thời xưa)
(lúc sắp chia tay, níu áo chàng nói)
(nay dù chàng có đi đến đâu)
(thiếp sẽ không buồn vì chàng về trễ)
(chỉ xin chàng đừng có ghé Lâm Ngang)
Ghi chú: Lâm Ngang, tên đất nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi Trác Văn Quân (góa phụ nhà giàu) bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như (nghệ sĩ nghèo). Chuyện xảy ra thời nhà Hán, thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Ý thơ nói đó là nơi có phụ nữ lẳng lơ dễ theo trai.
*******
Xa nhau thuở xưa
***
Níu chàng lúc sắp chia ly
Thiếp xin dược hỏi chàng đi phương nào?
Dù chàng về muộn chẳng sao
Chỉ xin chàng chớ ghé vào Lâm Ngang
*
SongNguyễn HànTú
unnamed
古 原 草 送 別
離 離 原 上 草 
一 歲 一 桔 榮
野 火 燒 不 盡
春 風 吹 又 生
遠 芳 侵 古 道
晴 翠 接 荒 城
又 送 王 孩 去
萋 萋 滿 別 情
白 居 易
 *
Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt 
Ly ly nguyên thượng thảo 
Nhất tuế nhất khô vinh 
Dã hỏa thiêu bất tận 
Xuân phong xuy hựu sinh 
Viễn phương xâm cổ đạo 
Tình thúy tiếp hoàng thành 
Hựu tống vương tôn khứ 
Thê thê mãn biệt tình 
Bạch Cư Dị
(tiễn khách trên cỏ cánh đồng cổ xưa)
(cỏ mọc um tùm trên cánh đồng)
(mỗi năm một lần khô héo rồi xanh tốt)
(lửa đồng nội đốt không chết hẳn)
(khi có gió xuân thổi thì mọc lại)
(hương thơm ngào ngạt trên đường cũ)
(màu cỏ xanh ngát tới tường thành hoang)
(lại đưa tiễn vương tôn hồi phủ)
(vẻ tươi đẹp thắm đượm lúc chia tay)
 *
Tiễn Khách
 *
Một vùng đồng cỏ tốt tươi
Mùa khô nóng cháy qua rồi lại xanh
Sống lây lất dưới nắng hanh
Mầm non vươn mọc tiết lành lập Xuân
Hương đồng cỏ nội ngập tràn
Mầu xanh phủ tới sát chân tường thành
Tiễn vương tôn lại cung đình
Lòng vui mở hội, ân tình chứa chan
SongNguyễn HànTú
unnamed
古 風 
其 一
鋤 禾 日 當 午
汗 滴 禾 下 土
誰 念 盤 中 餐
粒 粒 皆 辛 苦
其 二
春 種 一 粒粟
秋 收萬 顆 子
四 海 無 閑 田
農 夫 猶 餓 死
李 紳
*
Cổ Phong 
*
Kỳ nhất
Sừ hòa nhật đương ngọ
Hãn trích hòa hạ thổ
Thùy niệm bàn trung san
Lạp lạp giai tân khổ
*
Dich nghia:
Kỳ 1
(làm ruộng lúc buổi trưa đứng bóng)
(mồ hôi nhỏ xuống cây lúa mọc trên đất)
(lúc ngồi ăn bên mâm cơm, có ai nghĩ)
***
Kỳ nhị
Xuân chủng nhất lạp túc
Thu thu vạn khỏa tử
Tứ hải vô nhàn đìền
Nông phu do ngạ tử
*
Lý Thân
Dich nghia:
(mùa xuân gieo xuống đất một hạt thóc)
(đến mùa thu gặt về cả vạn hạt lúa)
(không có chỗ nào là đất bỏ hoang)
(thế mà người cày ruộng vẫn chết đói)
***********
Thơ Cổ Phong
***
Kỳ nhất
*
Xới cày trưa nắng trang trang
Mồ hôi tưới đất mùa màng tốt tươi
Chén cơm ngon miệng ai ơi
Xiết bao gian khổ của người nông dân
***
Kỳ nhị
*
Thóc gieo một hạt mùa xuân
Thu về thâu gặt muôn ngàn hạt tươi
Ruộng mầu canh tác khắp nơi
Mà sao chết đói vẫn người nông dân?***
SongNguyễn HànTú
unnamed
古 風
 登 高 望 四 海
天 下 何 漫 漫
霜 被 群 物 秋
風 飄 大 荒 寒
榮 華 東 流 水
萬 事 皆 波 灡
白 日 掩 徂 暉
浮 雲 無定 端
梧 桐 巢 燕 雀
枳 棘 棲 鴛 鸞
且 復 歸 去 來
劍 歌 行 路 難
李 白
*
Cổ Phong 
*
Đăng cao vọng tứ hải
Thiên địa hà man man
Sưong bị quần vật thu
Phong phiêu đại hoang hàn
Vinh hoa đông thủy lưu
Vạn sự giai ba lan
Bạch nhật yểm tồ huy
Phù vân vô định đoan
Ngô đồng sào yến tước
Chỉ cức thê uyên loan
Thả phục quy khứ lai
Kiếm ca hành lộ nan.
Lý Bạch
*
Dich nghia:
(phong thái cổ xưa)
(lên cao nhìn ra bốn biễn)
(thấy trời đất thật là bao la)
(mọi vật chìm trong làn sương thu)
(gió thổi hơi lạnh qua miền hoang vu)
(phú quý như dòng nước chảy ra biẻn đông)
(vạn sự đều như lớp sóng dồn)
(mặt trời bị ngăn chở tia sáng)
(bởi đám mây nổi không bờ bến)
(chim yến và chim sẻ làm tổ trên cây ngô đồng)
(nào thì quay trở về)
(vỗ kiếm mà ca rằng đường đời quả gian nan)
****
Phong Cách Xưa
*
Bước lên đỉnh cao
Vời trông bốn biển
Đất trời mênh mông hiển hiện
Sương thu trùm phủ không trung
Gió chiều lồng lộng
Không gian chập trùng
Miếng vinh hoa tựa dòng nước xuôi đông
Đời…vạn vật tan dần như sóng biển
Ánh thiều quang sao bỗng dưng chợt biến
À!
Một vầng mây trôi lơ lửng bềnh bồng
Chú sẻ lăng xăng trong khóm ngô đồng
Uyên, loan đậu nơi bụi cây gai sắc
Ta thơ thẩn, mơ màng quay bước
Múa kiếm mà ca
Đường mờ mịt gian nan
*
SongNguyễn HànTú
unnamed
古意 
盧家少婦鬱金香
海燕雙棲玳瑁梁
九月寒砧催木葉
十年征戍憶遼陽
白狼河北音書斷
丹鳳城南秋夜長
誰為含愁獨不見
更教明月照流黃
沈佺期
Cổ Ý
*
Lư gia thiếu phụ uất kim hương
Hải yến song thê dại mạo lương
Cửu nguyệt hàn châm thôi mộc diệp
Thập niên chinh thú ức Liêu Dương
Bạch Lang hà bắc âm thư đoạn
Đan Phụng thành nam thu dạ trường
Thùy vị hàm sầu độc bất kiến
Cánh giao minh nguyệt chiếu lưu hoàng
*
Thẩm Thuyên Kỳ
*
Dich nghĩa:
(ý xưa)
(người dâu trẻ nhà họ Lư mặc áo màu nghệ)
(đôi én biển đậu trên rường nhà khảm đồi mồi)
(tiếng chày trong tháng 9 giá lạnh làm lá cây rụng)
(nhớ chàng đi lính thú đã 10 năm ở Liêu Dương)
(thư tín từ sông Bạch Lang phương bắc gián đoạn)
(nên những đêm thu ở thành Đan Phụng phía nam dài)
(trời xanh không thấy ta đang vì ai sầu tủi một mình hay sao)
(mà còn khiến cho trăng sáng chiếu đầy ánh vàng)
*******
Ý Xưa
***
Dâu nhà Lư, 
áo nghệ vàng
Trên rường nhà trạm, chim ngàn đậu chơi
Tháng chín chày giục lá rơi
Liêu Dương cách biệt đã mười năm qua
Dòng Bạch biệt hẳn tin xa
Đêm Thu Đan Phụng thấy ra càng dài
Tủi buồn này biết không trời
Còn đem trăng chiếu khắp nơi ánh vàng
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 中 題 
輦 路 生 秋 草
上 林 花 滿 枝
憑 風 何 限 意
無 復 侍 臣 知
李 桓
*
Cung Trung Đề
***
Liễn lộ sinh thu thảo
Thượng Lâm hoa mãn chi
Bằng cao hà hạn ý
Vô phục thị thần tri
Lý Hoàn
********
Dich nghia:
(thơ đề trong cung)
(cỏ mùa thu đã mọc trên đường xe [do người kéo])
(hoa nở đầy cành trong vườn Thượng Lâm)
(ý thơ cao xa ngoài hạn định)
(bọn quan hầu [vua] làm sao hiểu được)
*
Thơ Đề Trong Cung
***
Lối xe lác đác mầu thu thảo
Hoa nở rực đầy khắp Thượng Lâm
Ý dâng bàng bạc vời cao ngất
Nào dễ ai tường được cõi tâm
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 中 行 樂 
其一
寒 雪 梅 中 盡
春 風 柳 上 歸
宮 鶯 嬌 欲 醉
簷 燕 語 還 飛
遲 日 明 歌 席
新 花 艷 舞 衣
晚 來 移 綵 仗
行 樂 泥 光 煇
李 白
Cung Trung Hành Lạc
*
kỳ nhất 
*
Hàn tuyết mai trung tận
Xuân phong liễu thượng quy
Cung oanh kiều dục túy
Thiềm yến ngữ hoàn phi
Trì nhật minh ca tịch
Tân hoa diễm vũ y
Vãn lai di thái trượng
Hành lạc nệ quang huy
*
Lý Bạch
Dich nghia:
(thú vui trong cung)
(tuyết lạnh không còn đọng trên cây mai nữa)
(gió xuân đã như trở về trên ngọn liễu)
(chim oanh trong cung đẹp đến say đắm lòng người)
(chim yến vừa bay vừa hót líu lo ngoài thềm)
(nắng chiều vương trên bữa tiệc có ca múa)
(hoa mới nở cài vào làm thêm đẹp áo vũ công)
(xẩm tối dẹp bỏ các nghi trượng lộng lẫy)
(vui chơi thỏa thích dưới ánh sáng đèn đuốc)
*****
Thú Vui Trong Cung
*
Bài 1
Khóm mai tuyết lạnh tan rồi
Gió lay cành liễu bên trời đong đưa
Cung trong oanh hót say sưa
Hoà cùng tiếng yến nhởn nhơ thềm ngoài
Nắng chiều soi tiệc rạng ngời
Hoa tươi rực rỡ áo người múa ca
Tàn ngày nghi trượng dẹp qua
Vui chơi thỏa thích xa hoa tháng ngày
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 中 行 樂
 其 二
繡 戶 春 風 暖
紗 窗 署 色 新
宮 花 爭 笑 日
池 草 暗 生 春
綠 樹 聞 歌 鳥
青 樓 見 舞 人
昭 陽 桃 李 月
羅 綺 自 相 親
李 白
Cung Trung Hành Lạc
*
Kỳ nhị 
*
Tú hộ xuân phong noãn
Sa song thự sắc tân
Cung hoa tranh tiếu nhật
Trì thảo ám sinh xuân
Lục thụ văn ca điểu
Thanh lâu kiến vũ nhân
Chiêu Dương đào lý nguyệt
La ỷ tự tương thân.
Lý Bạch
Dich nghia:
(thú vui trong cung)
(gió xuân ấm áp thoảng bên cửa có rèm thêu)
(bình minh chiếu trên màn lụa che cửa sổ)
(hoa trong cung đua cười dưới nắng)
(cỏ bên bờ ao âm thầm biểu hiện mùa xuân)
(có tiếng chim hót trên cây xanh)
(còn trên lầu xanh thấp thoáng bóng dáng vũ công)
(cung Chiêu Dương đầy trăng, đào, mận…)
(tự chung đụng trong lụa là)
*****
Thú Vui Trong Cung
*
Bài 2
Gió Xuân ấm thổi qua màn cửa
Màn the che rực rỡ nắng mai
Hoa trong cung đua sắc thắm tươi
Bờ ao cỏ mượt mà xuân sắc
Chim ríu rít trên cành xanh biếc
Nơi lầu xanh vũ nữ múa ca
Cung Chiêu Dương đào, mận, trăng, hoa…
Cùng quấn quít vui chơi thân mật
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 中 行 樂
 其 三
柳 色 黃 金 嫩
梨 花 白 雪 香
玊 樓 巢 翡 翠
金 殿 銷 鴛 鴦
選 妓 隨 雕 輦
微 歌 出 洞 房
宮 中 誰 第 一
飛 燕 在 昭 陽
李 白
*
Cung Trung Hành Lạc
kỳ 3
*
Liễu sắc hoàng kim nộn
Lê hoa bạch tuyết hương
Ngọc lâu sào phi thúy
Kim điện tỏa uyên ương
Tuyển kỹ tùy điêu liễn
Trưng ca xuất động phòng
Cung trung thùy đệ nhất
Phi Yến tại Chiêu Dương
*
Lý Bạch
Dịch nghĩa:
(thú vui trong cung)
(sắc liễu nõn nà như vàng ròng)
(hoa lê trắng như tuyết ngát hương thơm)
(chim bói cá làm tổ trên lầu ngọc)
(điện vàng khóa kín chim uyên ương)
(lựa kỹ nữ đi theo xe chạm trổ)
(lấy ca nhi ra khỏi phòng riêng)
(ai là người đẹp nhất trong cung?)
(chính là nàng Phi Yến ở cung Chiêu Dương)
*******
Thú Vui Trong Cung
*
Bài 3
Nét nõn nà sắc tơ vàng óng ả
Hương ngất ngây mùi lê tuyết thanh cao
Vẻ kiêu sa phi thúy chốn ngọc lầu
Luôn quanh quẩn trong điện vàng kín cửa
Theo xe chạm các mỹ nhân tuyển lựa
Từ khắp vùng buộc rời khỏi phòng the
Nhưng hỏi ai kẻ trội nhất bây giờ ?
Hẳn Phi Yến Chiêu Dương trang tuyệt sắc
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮中 詞 
寂 寂 花 時 閉 院 門
美 人 相 並 立 瓊 軒
含 情 欲 說 宮 中 事
鸚 鵡 前 頭 不 敢 言
朱 慶 餘
*
Cung Trung Từ
*
Tịch tịch hoa thời bế viện môn
Mỹ nhân tương tịnh lập quỳnh hiên
Hàm tình dục thuyết cung trung sự
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn
*
Chu Khánh Dư
***
Dịch Nghia
(lời trong cung)
(vào lúc cửa cung đã đóng, hoa lá yên lặng)
(các người đẹp còn đứng ở hiên ngọc)
(chứa chan nỗi niềm muốn nói về việc ở trong cung)
(nhưng có con vẹt ở phía trước, không ai dám nói)
*******
Lời Trong Cung
*
Cổng cài cảnh vật êm đềm
Người tiên vẫn tụ ngọc hiên dập dìu
Niềm riêng muốn tỏ dăm điều
Liếc nhìn con vẹt xem chiều còn e
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 詞 
玉 樓 天 半 起 笙 歌
風 送宮 嬪 笑 語 和
月 殿 影 開 聞 夜 漏
水 晶 簾 捲 近 秋 河 
顧況
*
Cung Từ 
Ngọc lâu thiên bán khởi sanh ca 
Phong tống cung tần tiếu ngữ hòa 
Nguyệt điện ảnh khai văn dạ lậu 
Thủy tinh liêm quyện cận thu hà. 
Cổ Huống
*
Lời Trong Cung
Lầu cao rộn rã tiếng đàn ca
Cười nói cung tần vẳng vọng ra
Trăng mới lên rồi, canh vừa điểm
Cuốn rèm cứ ngỡ cạnh Ngân Hà
SongNguyễn HànTú

unnamed

宮 詞 
十二 樓 中 盡 曉 粧
望 仙 樓 上 望 君 王
銷 銜 金 獸 連 環 冷
水 滴 銅 龍 晝 漏 長
雲 髻 罷 梳 還 對 鏡
羅 衣 欲 換 更 添 春
遙 窺 正 殿 簾 開 處
袍 褲 宮 人 掃 御 床
薜 逢
*
Cung Từ 
Thập nhị lầu trung tận hiểu trang 
Vọng Tiên lâu thượng vọng quân vương 
Tỏa hàm kim thú liên hoàn lãnh 
Thủy trích đồng long trú lậu trường 
Vân cát đối sơ hoàn đối kính 
La y dục hoán cánh thiêm hương 
Dao khuy chính điện liêm khai xứ 
Bào khố cung nhân tảo ngự sàng. 
Tiết Phùng
 *
Bài Hát Trong Cung
Phấn son trang điểm thật thắm tươi
Lầu Vọng Tiên, lên ngóng bóng Người
Khóa thú mạ vàng dây lạnh buốt 
Rồng đồng điểm khắc hững hờ rơi
Nhẹ chải tóc mây gương đối bóng
Ướp mùi áo lụa ngát hương trời
Xa xa chánh điện nơi rèm mở
Cung nữ lau chùi chốn vua ngơi
SongNguyễn HànTú

unnamed

狂夫 
萬里橋西一草堂
百花潭水正滄艮
風含翠篠娟娟靜
雨裛紅蕖冉冉香
厚祿故人書斷絕
恒餓稚子色凄涼
欲埴溝壑惟疏放
自笑狂夫老更狂
杜甫
*
Cuồng Phu
***
Vạn Lý kiều tây nhất thảo đường
Bách Hoa đàm thủy chính Thương Lang
Phong hàm thúy tiểu quyên quyên tĩnh
Vũ ấp hồng cừ nhiễm nhiễm hương
Hậu lộc cố nhân thư đoạn tuyệt
Hằng cơ trĩ tử sắc thê lương
Dục điền câu thác duy sơ phóng
Tự tiếu cuồng phu lão cành cuồng
Đỗ Phủ
***
Dich nghia:
(gã khùng)
(có một căn nhà cỏ ở phía tây cầu Vạn Lý)
(nước đầm Bách Hoa thông với sông Thương Lang)
(gió mơn man bụi trúc xanh tốt yên tịnh)
(nước mưa đọng trên hoa sen hồng tỏa hương ngào ngạt)
(thư từ của các bạn cũ giàu bổng lộc không tới nữa)
(đám con thơ thường xuyên đói vẻ mặt bơ phờ)
(đã tính gieo mình xuống đầm lạch nhưng vụng về [không chết])
cuồng (tự chê cười mình là gã khùng, càng già lại càng khùng)*
Ghi chú : Năm 49 tuổi (760) Đỗ Phủ cất một nhà cỏ ở ngoại ô Thành Đô
(nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên), phía tây cầu Vạn Lý, phía bắc đầm Bách Hoa,
nước đầm thông với sông Thương Lang.
*****
Gã Cuồng
***
Căn nhà cỏ phía tây cầu Vạn Lý
Nước thông dòng đầm Bách với sông Thương
Nằm khuất gió, khóm trúc xanh đẹp quá
Cánh sen hồng đọng nước tỏa mùi hương
*
Mong lộc bạn sao lâu nay vắng bặt
Đám con thơ bụng trống rỗng nằm suông
Nếu khéo léo thân đã vùi khe suối
Thật nực cười khú đế vẫn cuồng ngông
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

久客 
羈旅知交態
淹流見俗情
衰顏聊自哂
小使最相輕
去國哀王璨
傷時哭賈生
狐狸何足道
豺虎正縱橫
杜甫
Cửu Khách
***
Cơ lữ tri giao thái
Yêm lưu kiến tục tình
Suy nhan liêu tự thẩn
Tiểu lại tối tương khinh
Khứ quốc ai Vương Xán
Thương thì khồc Giả Sinh
Hồ ly hà túc đạo
Sài hổ chình tung hoành
Đỗ Phủ
***
Dich nghia:
(ở lâu nơi đất khách)
(có ở nhờ mới biết lòng bạn bè)
(sống mãi bên người mới biết tình đời)
(tự cười cho cái bản mặt già khằn)
(làm chức nhỏ mà khinh người quá)
(thương cho Vương Xán phải bỏ nước)
(khóc tiếc cho Giả Sinh không gặp thời)
(lũ chồn cáo nói tới làm chi)
(vì đang là lúc bọn sói cọp đang ngang dọc)
*
Ghi chú: Vương Xán, người đời Tam Quốc, văn hay. Làm quan cho Lưu Biễu
ở Kinh Châu. Khi Tào Tháo đoạt Kinh Châu, ông làm quan cho y.
Giả Sinh, tức Giả Nghị, người đời Hậu Hán, tuổi trẻ tài cao, được vua trọng dụng,
nhưng bị bọn đại thần bảo thủ dèm pha, đưa đi làm thái phó ở những nơi xa xôi.
Ông buồn rầu, bất đắc chí, chết năm mới 33 tuổi.
******
Ở Lâu Nơi Đất Khách
***
Gặp bĩ cực mới hiểu tình bằng hữu
Có sống lâu mới rõ được thói đời
Tự cười mình vẻ nhăn nhó khó coi
Chức quan mọn mà đặt bày lớn lối
ThươngVương Xán chịu hẩm hiu đất mới
Tội Giả Sinh bị hụt hẫng đường trần
Lũ cáo, chồn đâu màng tới…chả cần
Loài sói, cọp đang nghênh ngang khắp chốn
***
SongNguyễn HànTú
unnamed
九月登望仙臺 
呈劉明府漢文皇帝有高臺
此日登臨署色開
三晉雲山皆北向
二陵風雨自東來
關門令尹誰能識
河上仙翁去不回
且欲近尋彭澤宰
陶然共醉菊花杯
崔署
Cửu Nguyệt Đăng Vọng Tiên Đài Trình Lưu Minh Phủ 
***
Hán Văn hoàng đế hữu cao đài
Thử nhật đăng lâm thự sắc khai
Tam Tấn vân sơn giai bắc hướng
Nhị Lăng phong vũ tự đông lai
Quan môn lệnh Doãn thùy năng thức
Hà Thượng tiên ông khứ bất hoàn
Thả dục cận tầm Bành Trạch tể
Đào nhiên cộng túy cúc hoa bôi
Thôi Thự
***
Dịch nghĩa:
(tháng 9 lên đài Vọng Tiên viết gửi Lưu Minh Phủ)
(vua Văn Đế nhà Hán đã cho dựng 1 đài cao)
(ngày nọ [tháng 9] tôi lên đài, nắng sớm chan hòa)
(mây núi vùng Tam Tấn bay về phương bắc)
(mưa gió từ phía đông kéo tới Nhị Lăng)
(nào ai biết quan coi cửa ải họ Doãn?)
(đã để cho tiên ông Hà Thượng đi không trở về)
(tôi muốn tìm đến quan huyện Bành Trạch gần đây)
(để cùng ông uống rượu cúc kiểu ông Đào [Tiềm])
*
Ghi chú: Hà Thượng lão ông tiến cử Lão Tử lên vua Văn Đê nhà Hán, rồi đắc thành tiên
biến mất. Vua cho xây 1 đài cao ở núi Tậy Sơn, gọi là Vọng Tiên Đài,
ý mong lão ông trở lại.Đào Tiềm, người đời Tấn, giỏi thơ văn. Nhà nghèo, lại không cầu danh lợi. Mãi năm
40 tuổi mới ra làm 1 chức quan nhỏ ở huyện Bành Trạch. Được mấy tháng thì có
quan trên về thanh tra, đòi lo lót; ông treo ấn từ quan, trở về làm như nông dân. Cứ
đến tiết Trùng Dương (ngày 9 tháng 9 ) ông lại cùng bạn bè uống rượu cúc, ngâm thơ.
*****
Lên Đài Vọng Tiên
***
Đài cao ngất, Văn Đế xây thời H án
Bước lên thăm ngày nắng sớm dịu dàng
Mây núi vùng Tam Tấn hướng bắc phương
Mưa gió tới Nhị Lăng từ đông lại
Hẳn quan Doãn đã du di nơi ải
Để Thượng Ông khuất biền biệt nẻo tìm
Muốn ghé quan Bành Trạch chổ thân quen
Khề khà chút rượu thơm mùi hoa cúc
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

九日 
重陽獨酌杯中酒
抱病起登江上臺
竹葉於人既無分
菊花從此不須開
殊方日落玄猿哭
舊國霜前白雁來
弟妹蕭條各何在
干戈衰謝兩相催
杜甫
 *
Cửu Nhật
***
Trùng dương độc chước bôi trung tửu
Bão bệnh khởi đăng giang thượng đài
Trúc diệp ư nhân ký vô phận
Cúc hoa tòng thử bất tu khai
Thù phương nhật lạc huyền viên khốc
Cựu quốc sương tiền bạch nhạn lai
Đệ muội tiêu điều các hà tại
Can qua suy tạ lưỡng tương thôi.
Đỗ Phủ
*
Dich nghĩa:
(ngày 9 tháng 9 Tiết Trùng Dương)
(Trùng dương [năm nay] uống rượu một mình)
(đang bệnh cũng đứng dậy leo len gò bên sông)
(rượu Trúc Diệp đã không có duyên phận với ta)
(thì hoa cúc ơi mi chẳng cần nở nữa)
(buổi chiều trên xứ lạ, vượn đen kêu khóc)
(nhạn trắng từ hướng quê cũ bay tới trong sương)
(em trai, em gái tan tác hiện giờ đang ở đâu?)
(giặc giã và già yếu cả hai đang hành hạ ta)
*******
Ngày mồng 9 tháng 9
***
Rót chén rượu tiết Trùng dương đơn lẻ
Cố lê thân đến gò đất bên sông
Trúc Diệp Thanh chẳng còn đượm ý nồng
Thì này cúc, từ nay thôi đừng nở
Nơi xứ lạ trời về đêm vượn hú
Hướng quê xưa cánh nhạn trắng trong sương
Các em ơi, giờ mỗi kẻ một phương
Anh già yếu, giữa can qua khổ lụy
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

九月九日 憶山東兄弟
獨在異鄉為異客
每逢佳節倍思親
遙知兄弟登高處
遍插茱萸少一人
王維
*
Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ
***
Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Dao tri huynh đệ đang cao xứ
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân
***
Vương Duy
Dich nghia:
(ngày 9 tháng 9 nhớ anh em ở Sơn Đông)
(một mình ở quê người làm khách lạ)
(mỗi khi gặp ngày lễ hội lại càng nhớ người thân)
(tuy ở xa cũng biết giờ nay anh em đang lên núi)
(ai cũng có đeo cành thù du, thiếu 1 người [là ta])
*******
Ngày 9 tháng 9 nhớ Sơn Đông
**
Xa làng cũ, lẻ loi thân viễn khách
Dịp hội hè lại chạnh nhớ người thân
Chồn quê xưa giờ thân thích quay quần
Thù du gắn, riêng mình ta đất lạ
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

九日藍田崔氏莊
老去悲秋強自寬
興來今日盡君歡
羞將短髮還吹帽
笑倩旁人為正冠
藍水遠從千瀾落
玉山高並兩峰寒
明年此會知誰健
醉把茱萸仔細看
杜甫
*
Cửu Nhật Lam Điền Thôi Thị Trang
***
Lão khứ bi thu cưỡng tự khoan
Hứng lai kim nhật tận quân hoan
Tu tương đoản phát hoàn xuy mạo
Tiếu thánh bàng nhân vị chính quan
Lam thủy viễn tòng thiên giản lạc
Ngọc sơn cao tịnh lưởng phong hàn
Minh niên thử hội tri thùy kiện
Túy bả thù du tử tề khan.
*
Đỗ Phủ
*
Dịch nghĩa:
(ngày mồng 9 ở nhà họ Thôi tại Lam Điền)
(đã già nhưng yêu mùa thu nên gượng tự cho phép)
(hôm nay có hứng nên xin cùng quý vị vui hết mình)
(thẹn quá, tóc đã ngắn lại bị gió thổi tốc mũ)
(cười cười, nhờ người ngồi bên sửa mũ giùm)
(sông Lam do cả ngàn con suối từ xa đổ tới)
(núi Ngọc gồm 2 ngọn cao đều và lạnh lẽo)
(lễ hội này sang năm biết ai còn mạnh khỏe)
(hãy cứ uống say và ngắm kỹ cành thù du này)
*
Ghi chú : Thù du, là thứ cây người Tàu thường bẻ nhánh mang trong mình, rồi lên
núi, uống rượu cúc với bạn bè trong ngày 9 tháng 9 (lễ hội Trùng Dương) với tin tưởng
làm thế sẽ giải trừ được tai họa sắp đến.
*******
ngày mồng 9 ở nhà họ Thôi tại Lam Điền
***
Dù tuổi hạc cũng gượng cho khuây khỏa
Thăm bạn hiền để tận hưởng niềm vui
Bực làn gió chẳng vị tình tóc ngắn
Thổi mũ nghiêng làm lão phải nhờ người
Cảnh tuyệt nhỉ…
dòng sông Lam đổ xuống
Ngọn Ngọc Sơn cao sừng sững giữa trời
Sang năm biết có ai còn khỏe mạnh
Ngắm thù du 
À . . . !
hãy cứ say thôi
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

九日 
去年登高郪縣北
今日重在涪江濱
苦遭白髮不相放
羞見黃花無數新
世亂鬱鬱久為客
路難悠悠常傍人
酒闌卻憶十年事
腸斷驪山清路塵
杜甫
*
Cửu Nhật
***
Khứ niên đăng cao Thê huyện bắc
Kim nhật trùng tại Phù giang tân
Khổ tao bạch phát bất tương phóng
Tu kiến hoàng hoa vô số tân
Thế loạn uất uất cửu vi khách
Lộ nạn du du thường bạng nhân
Tửu lan khước ức thập niên sự
Trường đoạn Ly sơn thanh lộ trần
Đỗ Phủ
Dich nghia:
(ngày 9 tháng 9: Tiết Trùng Dương)
(năm ngoái lên núi phía bắc huyện Thê)
(hôm nay [tiết đến] ta đang ở bến sông Phù)
(khổ cái tóc trắng không chịu buông tha ta)
(làm ta mắc cỡ khi ngắm hoa vàng mới nở rộn ràng)
(thời loạn ta buồn vì phải xa nhà lâu quá)
(khó khăn cứ theo ta dai dẳng hoài)
(tiệc rượu tàn, ta càng nhớ chuyện 10 năm qua)
(nhớ tới thuở thanh bình ở núi Ly mà đau lòng)
*******
Ngày 9 tháng 9 
***
Núi phía bắc huyện Thê leo năm trước
Bến Phù Giang luẩn quẩn tiết năm nay
Tóc trắng phau tuổi năm tháng chất đầy
Hoa mới nở rực vàng…nhìn e thẹn
Thân viễn xứ, lòng ngổn ngang thời loạn
Bao gian nguy vẫn rình rập quanh người
Thấm hơi men nhớ năm tháng tả tơi
Dạ quặn thắt thương núi Ly ngày cũ
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

赤 壁 懷 古
折 戟 沈 沙 鐵 未 銷
自 將 磨 洗 認 前 朝
東 風 不 與 周 郎 便
銅 雀 春 深 鎖 二 喬
杜 牧
*
Xích Bích Hoài Cổ 
*
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu 
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều 
Đông phong bất dữ Chu Lang tiện 
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều 
Đỗ Mục
*
(nhớ truyện xưa ở Xích Bích)
(cây kích bắng sắt gảy nằm sâu trong cát chưa bị hủy hoại) 
(tự tay ta rũa sét và chùi rửa thì nhận ra của triều đại xưa) 
(nếu ngọn gió Đông không giúp tốt cho Chu Lang) 
(thì ngày xuân hai nàng Kiều đã bị nhốt kín ở đài Đồng Tước rồi)
Chú thích: Xích Bích là tên một khúc sông trên Trường Giang thuộc tỉnh Hồ Bắc . Thời Tam Quốc, 
Chu Lang là Chu Du, đô đốc của thủy quân Đông Ngô . Ông lợi dụng gió đông, dùng hỏa công đánh
bại tám mươi vạn quân Bắc Ngụy do Tào Tháo đích thân chỉ huy trên khúc sông này. Nhị Kiều, 
là Đại Kiều vợ Tôn Sách và Tiểu Kiều vợ Chu Du. Khổng Minh nói khích Chu Du rằng Tào Tháo 
đã xây đài Đồng Tước để nếu thắng trận sẽ bắt hai nàng họ Kiều này về đây hầu hạ mình lúc tuổi già,
khiến Chu Du nổi giận quyết chí đánh Tào.
*
Nhớ Truyện Xưa Ở Xích Bích
 *
Chìm trong cát ngọn kích chưa rỉ sét 
Lau chùi qua hiện rõ dấu triều xưa 
Phải gió đông không đãi ngộ Chu Du 
Nhị Kiều đã nhốt thân đài ĐồngTước
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 宮 曲
昨 夜 風 開 露 井 桃
未 央 前 殿 月 輪 高
平 陽 歌 舞 新 承 寵
簾 外 春 寒 賜 錦 袍
王 昌 齡
 *
Xuân Cung Khúc 
Tạc dạ phong khai Lộ tỉnh đào 
Vị Ương tiền điện nguyệt luân cao 
Bình Dương ca vũ tân thừa sủng 
Liêm ngoại xuân hàn tứ cẩm bào 
Vương Xương Linh
*
(khúc hát trong cung mùa xuân)
(đêm qua gió [xuân] đã làm đào ở giếng Lộ nở hoa) 
(phía trước điện Vị Uơng trăng lên cao) 
(người múa hát [của công chúa] Bình Dương vừa được vua cha yêu thích)
([đang được Võ Đế] ban cho áo gấm ngoài rèm trong đêm xuân lạnh) 
*
Khúc hát trong cung mùa xuân
*
Bên giếng Lộ, gió đêm về đào nở 
Điện Vị Vương ánh trăng sáng diệu huyền 
Vua say mê nàng ca vũ Bình Dương 
Hơi xuân lạnh, người truyền ban áo gấm
SongNguyễn HànTú 
unnamed
春 夜喜 雨
好 雨 知 時 節
當 春 乃 發 生
隨 風 潛 入 夜
潤 物 細 無 聲
野 徑 雲 俱 黑
江 船 火 獨 明
曉 看 紅 濕 處
花 重 錦 官 城
杜 甫
*
Xuân Dạ Hỉ Vũ 
Hảo vũ tri thời tiết 
Đương xuân nãi phát sinh 
Tùy phong tiềm nhập dạ 
Nhuận vật tế vô thanh 
Dã kính vân câu hắc 
Giang thuyền hỏa độc minh 
Hiểu khán hồng thấp xứ 
Hoa trọng Cẩm Quan thành
Đỗ Phủ
*
(mưa phùn đêm xuân)
(mưa phùn biết thời tiết)
(nên nhằm đang tiết xuân mới sinh ra)
(theo gió lặng lẽ rơi trong đêm)
(thấm nhuần vạn vật bằng hạt nhỏ li ti không tạo ra tiếng)
(đường quê mây đen kéo đầy)
(thuyền trên sông le lói ánh lửa)
(nắng sớm mai chiếu hồng cảnh vật ướt át)
(hoa nở nặng chĩu trong thành Cẩm Quan)
*
Đêm Xuân Mừng Mưa
*
Chắc là biết rõ đất trời
Mùa Xuân mưa nhẹ vui đời thế gian
Giữa đêm, theo gió mưa đan
Cảnh im tắm mát trong làn mưa bay
Đường quê mây xám giăng đầy
Trên sông le lói đèn ai chập chờn
Nắng ban mai, cảnh đẹp hơn
Hoa tươi đua nở ngập đường Cẩm Quan
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 夜 洛 城 聞 笛
誰 家 玉 笛 暗 飛 聲
散 入 春 風 滿 洛 城
此 夜 曲 中 聞 折 柳
何 人 不 起 故 園 情
李 白
*
Xuân Dạ Lạc Thành Văn Địch 
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh 
Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành 
Thử dạ khúc trung văn “Chiết Liễu” 
Hà nhân bất khởi cố viên tình 
Lý Bạch
*
(đêm xuân nghe tiếng sáo ở thành Lạc [Dương] )
(tiếng sáo ngọc nhà ai thoảng đưa tới)
(hòa trong gió xuân bay đi khắp thành Lạc [Dương] )
(đêm nay nghe bài “Chiết Liễu” [cành liễu gãy] )
(ai nghe mà không chạnh nhớ vườn xưa )
*
Tiếng Sáo Đêm Xuân
*
Đêm xuân tiếng sáo lênh đênh
Nỉ non trong gió khắp thành Lạc Dương
Âm bài Chiết Liễu vấn vương
Nghe lòng sâu thẳm niềm thương vườn nhà
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 曉
春 眠 不 覺 曉
處 處 聞 啼 鳥
夜 來 風 雨 聲
花 落 知 多 少
孟 浩 然
*
Xuân Hiểu 
Xuân miên bất giác hiểu 
Xứ xứ văn đề điểu 
Dạ lai phong vũ thanh 
Hoa lạc tri đa thiểu 
Mạnh Hạo Nhiên
 *
(buổi sáng mùa xuân)
*
(đêm xuân ngủ say không biết trời đã sáng)
(chỗ nào cũng nghe tiếng chim hót)
(đêm [qua] có tiếng gió và mưa)
(không biết [sáng nay] có bao nhiêu hoa rụng?)
 *
Sáng Xuân
Bài 1
Miên man giấc ngủ đêm xuân
Tỉnh ra chim hót ngoài sân vang trời
Đêm qua mưa gió tơi bời
Chắc hoa xuân rụng tả tơi ít nhiều
Bài 2
Đêm Xuân say giấc ngủ tràn
Tỉnh ra chim hót rộn ràng trên cây
Hồi đêm mưa gió về đây
Chắc làm hoa rụng rơi đầy ngoài sân
SongNguyễn HànTú
unnamed
春 閨
裊 裊 城 邊 柳
青 青 陌 上 桑
提 籠 忘 採 葉
昨 夜 夢 渙 陽
戴 叔 倫
*
Xuân Khuê 
Niễu niễu thành biên liễu 
Thanh thanh mạch thượng tang 
Đề lung vong thái diệp 
Tạc dạ mộng Ngư Dương 
Đới Thúc Luân
 *
(mùa xuân nơi khuê phòng)
(liễu ở ngoại thành mơn mởn)
(dâu mọc hai bên lối đi xanh xanh)
(tay mang giỏ mà quên cả việc hái lá [dâu])
([vì] đêm qua vừa mơ [đi thăm chàng ở] Ngư Dương}
Ghi chú: Ngư Dương là một quan ải trên biên giới phía đông bắc Trung Hoa
*
Mùa Xuân Nơi Khuê Phòng
 *
Liễu bên thành mơn mởn
Dâu xanh ngát trên đường
Giỏ trống quên hái lá
Đêm mộng viếng Ngư Dương
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 暮
門 外 無 人 問 落 花
綠 陰 冉 冉 遍 天 涯
林 鶯 啼 到 無 聲 處
青 草 氾 塘 獨 聽 蛙
曹 豳
*
Xuân Mộ 
Môn ngoại vô nhân vấn lạc hoa 
Lục âm nhiễm nhiễm biến thiên nhai 
Lâm oanh đề đáo vô thanh xứ 
Thanh thảo trì đường độc thính oa 
Tào Bân
*
(chiều xuân)
(ngoài cửa không có ai tới thăm hỏi, hoa rụng đầy)
(màu xanh tối dần dần bao trùm bầu trời)
(chim oanh hót nơi rừng vắng lặng)
(trong đám cỏ xanh ở bờ ao chỉ nghe ếch kêu)
*
Chiều Xuân
*
Ngoài cổng chẳng khách xót hoa rơi
Ánh xanh mờ nhạt khắp khung trời
Chim oanh đua hót khu rừng vắng
Lùm cỏ, bờ ao tiếng ếch thôi
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 日 憶 李 白
白 也 詩 無 敵
飄 然 思 不 群
清 新 庾 開 府
俊 逸 鮑 參 軍
渭 北 春 天 樹
江 東 日 暮 雲
何 時 一 樽 酒
重 與 細 論 文
杜 甫
*
Xuân Nhật Ức Lý Bạch 
Bạch dã thi vô địch 
Phiêu nhiên tứ bất quần 
Thanh tân Dữu Khai Phủ 
Tuấn dật Bào Tham Quân 
Vị Bắc xuân thiên thụ 
Giang Đông nhật mộ vân 
Hà thời nhất tôn tửu 
Trùng dữ tế luân văn 
Đổ Phủ
*
(ngày xuân nhớ Lý Bạch)
([bác] Bạch làm thơ không ai sánh bằng) 
(ý thơ bay bổng không giống ai) 
(trong sáng và mới mẻ như thơ quan Khai phủ họ Dữu) 
(hơn đời, khác đời như thơ quan Tham quân họ Bào) 
([tôi] ở Vị Bắc ngày xuân xem cây rừng) 
([bác] ở Giang Đông [hẳn là] đang ngắm mây chiều) 
(biết bao giờ mới lại được nâng chén rượu) 
(tương phùng và đàm đạo kỹ văn chương)
 *
Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch
*
Dòng thơ bác Lý nhất đời 
Ý thơ dào dạt vượt ngoài thế gian 
Dữu gia xem cũng không hơn 
Bảo quan nghĩ chẳng đạt hơn nét hùng 
Cây Xuân Vị Bắc chập chùng 
Chiều tàn vui cảnh Giang Đông mây trời 
Bao giờ ta mới đưọc thời 
Cùng nhau đối ẩm thảnh thơi đạo đàm
SongNguyễn HànTú 

unnamed

春 日 獨 酌
東 風 扇 淑 氣
水 木 榮 春 暉
白 日 照 綠 草
落 花 散 且 飛
孤 雲 還 空 山
眾 鳥 各 已 歸
彼 物 皆 有 託
吾 生 獨 無 依
對 此 石 上 月
長 醉 歌 芳 菲
李 白
*
Xuân Nhật Độc Chước 
Đông phong phiến thục khí 
Thủy mộc vinh xuân huy 
Bạch nhật chiếu lục thảo 
Lạc hoa tán thả phi 
Cô vân hoàn không sơn 
Chúng điểu các dĩ qui 
Bỉ vật giai hữu thác 
Ngô sinh độc vô y 
Đối thử thạch thượng nguyệt 
Trường túy ca phương phi 
Lý Bạch 
*
(gió đông quạt làn hơi trong lành)
(sông và rừng tươi mát trong nắng xuân) 
(nắng chiếu trên cỏ xanh) 
(hoa rụng bay lả tả) 
(cụm mây lẻ loi bay trở về núi vắng) 
(bầy chim đều đã về tổ) 
(những vật đó đều có chỗ nương náu) 
(chỉ đời ta không nơi nương tựa) 
(trước ánh trăng chiếu trên đá) 
(ta uống say khướt vừa hát bài “Hương Thơm”)
*
Ngày Xuân Uống Rượu Một Mình
*
Thoảng vương làn gió êm đềm 
Cỏ cây tươi thắm trong thềm nắng xuân 
Ánh dương mơn trớn cỏ xanh 
Hoa xuân tan tác lìa cành bay bay 
Núi xa gom tụ ngàn mây 
Mùa xuân nắng ấm chim bay trở về 
Muôn loài hạnh phúc tràn trề 
Riêng ta một bóng lối về đã quên
Cạnh hòn đá phủ trăng đêm
Say sưa ca hát vang lên giữa trời
SongNguyễn HànTú 

unnamed

春 日 醉 起 言 志
處 世 若 大 夢
胡 為 勞 其 生
所 以 終 日 醉
頹 然 臥 前 楹
覺 來 盼 庭 前
一 鳥 花 間 鳴
借 問 此 何 時
春 風 語 流 鶯
感 之 欲 嘆 息
對 酒 還 自 傾
浩 歌 待 明 月
曲 盡 已 忘 情
李 白
*
Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí 
Xử thế nhược đại mộng 
Hồ vi lao kỳ sinh 
Sở dĩ chung nhật túy 
Đồi nhiên ngọa tiền doanh 
Giác lai miện đình tiền 
Nhất điểu hoa gian minh 
Tá vấn thử hà nhật 
Xuân phong ngữ lưu oanh 
Cảm chi dục thán tức 
Đối tửu hoàn tự khuynh 
Hạo ca đãi minh nguyệt 
Khúc tận dĩ vong tình 
Lý Bạch
*
Dịch nghĩa
(nếu cuộc đời chỉ là một giấc mộng lớn)
(thì cần gì phải sống lao lực)
(cho nên cả ngày cứ uống cho say sưa)
(cứ nằm kềnh ra trước hiên nhà)
(lúc tỉnh dậy trông ra sân trước)
(thấy một con chim đang hót trong đám hoa)
(thử hỏi bữa nay là ngày gì)
(mà chim oanh hót trong gió xuân?)
(cảm xúc về điều đó làm ta muốn than thở)
(nhưng trước [bầu] rượu ta lại tự nghiêng mình)
(hát vang chờ trăng sáng)
(hát hết bài thì cũng vừa quên hết nỗi lòng) 
*
Xuân Say
Đời người như giấc mộng 
Há làm khổ thân mình 
Hãy tìm vui trong rượu 
Chếnh choáng lại nằm kềnh 
……….. 
Tỉnh dậy nhìn sân trước 
Chim líu lo bên hoa 
Hôm nay ngày gì nhỉ 
Lời oanh . . . gió chan hòa 
……….. 
Chạnh tình muốn tâm sự 
Yêu cảnh lại chuốc men 
Nghêu ngao chờ trăng sáng 
Lời ca dứt…say mèm
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 怨
打 起 黃 鶯 儿
莫 教 枝 上 啼
啼 時 惊 妾 夢
不 得 到 遼 西
金 昌 緒
*
Xuân Oán 
Đả khởi hoàng oanh nhi 
Mạc giao chi thượng đề 
Đề thì kinh thiếp mộng 
Bất đắc đáo Liêu Tê 
Kim Xương Tự 
*
(hờn xuân)
(hãy đuổi con chim oanh vàng đi nơi khác)
(đừng để nó hót trên cành cây này) 
(vì lúc nó hót sẽ làm giấc mơ của thiếp bị kinh động) 
(và vì thế thiếp không đến được Liêu Tây thăm chàng). 
*
Hờn Xuân
 *
Đuổi dùm đi cánh oanh vàng 
Đừng cho nó hót rộn ràng líu lo 
Chim làm thiếp tỉnh cơn mơ 
Thăm chàng trấn đóng cõi bờ Liêu Tây
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 怨
紗 窗 日 落 漸 黃 昏
金 屋 無 人 見 淚 痕
寂 寞 空 庭 春 欲 晚
梨 花 滿 地 不 開 門
劉 方 平
*
Xuân Oán 
Sa song nhật lạc tiệm hoàng hôn 
Kim ốc vô nhân kiến lệ ngân 
Tịch mịch không đình xuân dục vãn 
Lê hoa mãn địa bất khai môn 
Lưu Phương Bình 
*
(hờn xuân)
([bên ngoài] song cửa có màn the mặt trời đã lặn, chiều xuống)
(trong phòng dát vàng vắng vẻ, [mắt nàng] hoen lệ) 
(ngoài sân trống không im ắng, vẻ xuân muốn tàn) 
(hoa lê rụng đầy đất, cổng đóng kín)
*
Hờn Giận Ngày Xuân
 *
Qua màn lụa ánh tà dương dần khuất 
Trong phòng vàng đôi hàng lệ ướt mi 
Sân vắng tanh, mùa xuân sắp ra đi 
Cửa đóng kín, hoa lê rơi khắp lối
SongNguyễn HànTú 

unnamed

春 盡
惜 春 連 日 醉 昏 昏
醒 後 衣 裳 見 酒 痕
細 水 浮 花 歸 別 澗
斷 雲 將 雨 下 孤 村
人 間 易 得 芳 時 恨
地 迥 難 招 自 古 魂
慚 愧 流 鶯 相 厚 意
清 晨 獨 為 到 西 園
韓 偓
*
Xuân Tận 
Tích xuân liên nhật túy hôn hôn 
Tỉnh hậu y thưòng kiến tửu ngân 
Tế thủy phù hoa quy biệt giản 
Đoạn vân tương vũ há cô thôn 
Nhân gian dị đắc phương thời hận 
Địa quýnh nan chiêu tự cổ hồn 
Tàm quý lưu oanh tương hậu ý 
Thanh thần độc vị đáo tây viên 
Hàn Ốc
*
(hết xuân)([vì]tiếc xuân [đi] nên say sưa mê mệt mấy ngày liền)
(khi tỉnh rượu, thấy quần áo còn mang dấu vết rượu)
([buồn như] nước cuốn hoa trôi sang suối khác)
([như] cụm mây đứt mang mưa về xóm lẻ loi)
(người đời dễ sầu hận trong tiết xuân)
(đất rộng khó mà gọi hồn những người xưa)
(thẹn với ý tốt của chim oanh lúc bay đi)
([nên] sáng sớm đã vì chim mà tới vườn phía tây)
*
Tàn Xuân
*
Tiếc xuân quá, uống mê man, ngây ngất
Khi tỉnh ra, áo rây rượu nực nồng.
Theo dòng suối hoa trôi về bến khác
Chốn cô thôn mưa trút ngập ruộng đồng
Cõi nhân thế, bao hận lòng tuổi trẻ
Chốn xa xôi, đâu hồn cũ mà mong
Lòng thẹn với chút tình oanh sâu thẳm
Tới vườn tây lúc trời rạng ánh hồng
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 夕 旅 懷
水 流 花 謝 兩 無 情
送 盡 東 風 過 楚 城
蝴 蝶 夢 中 家 萬 里
杜 鵑 枝 上 月 三 更
故 園 書 動 經 年 絕
華 髮 春 催 滿 鏡 生
自 是 不 歸 歸 便 得
五 湖 煙 景 有 誰 爭!
崔 塗
 *
Xuân Tịch Lữ Hoài 
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình 
Tống tận đông phong quá Sở thành 
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý 
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh 
Cố viên thư động kinh niên tuyệt 
Hoa phát xuân thôi mãn kính sinh 
Tự thị bất quy quy tiện đắc 
Ngũ Hồ yên cảnh hữu thùy tranh 
Thôi Đồ
*
(chiều xuân nơi đất khách nhớ nhà)
(nước chảy, hoa tàn, cả hai đều vô tình)
(đưa hết ngọn gió đông qua thành Sở)
(trong giấc mơ hóa bướm, nhà xa vạn dặm)
(chim cuốc dậu trên cành, trăng lúc canh ba)
(thư nhà vắng cả năm rồi)
(trong gương thấy tóc bạc đã phát nhiều xuân này)
(tự không muốn về, chứ về tất được)
(đâu có ai tranh với ta cảnh sương khói ở Ngũ Hồ)
*
Nhớ Nhà Đêm Xuân
*
Vô tình quá ! kìa hoa tàn, nước chảy 
Sao mang qua thành Sở cả gió xuân 
Trong giấc mơ, nhà cách vạn dậm ngàn 
Trăng khuya chiếu cành cây con cuốc đậu 
Tin nhà vắng ruột gan buồn nung nấu 
Đối gương nhìn tóc bạc trắng ngày xuân 
Không về thôi chứ muốn chắc có phần 
Ai tranh chốn Ngũ Hồ đầy sương phủ
SongNguyễn HànTú

unnamed

春 晴
雨 前 初 見 花 間 蕊
雨 後 全 無 葉 底 花
蜂 蝶 紛 紛 過 牆 去
卻 疑 春 色 在 鄰 家
王 駕
*
Xuân Tình 
Vũ tiền sơ kiến hoa gian nhị 
Vũ hậu toàn vô diệp để hoa 
Phong điệp phân phân quá tường khứ 
Khước nghi xuân sắc tại lân gia 
Vương Giá
 *
(trước trận mưa thoáng thấy còn nhụy trong các hoa)
(sau trận mưa hoàn toàn không còn hoa dưới lá)
(ong bướm dập dìu bay vượt tường đi mất)
(cứ ngỡ như vẻ xuân đang ở bên hàng xóm)
*
Tình Xuân
Mưa ơi sao quá phũ phàng
Cành còn trơ lá, hoa tàn tả tơi
Bướm ong cũng đã bay rồi
Vẻ Xuân chừng đã sang chơi nhà người 
SongNguyễn HànTú
unnamed
春 思
燕 草 如 碧 絲
秦 桑 低 綠 枝
當 君 懷 歸 日
是 妾 斷 腸 時
春 風 不 相 識
何 事 入 羅 幃
李 白
*
Xuân Tứ 
Yên thảo như bích ty 
Tần tang đê lục chi 
Đương quân hoài quy nhật 
Thị thiếp đoạn trường thì 
Xuân phong bất tuơng thức 
Hà sự nhập la vi? 
Lý Bạch
(ý xuân)
(cỏ đất Yên xanh như tơ biếc)
(dâu xứ Tần cành xanh rủ thấp)
(lúc chàng đang mong ngày trở về)
(cũng là lúc thiếp nhớ chàng muốn đứt ruột)
(gió xuân vốn đâu có quen biết)
(cớ sao thổi qua màn lụa nhập phòng?)
 *
Ý Xuân
*
Bài 1 
*
Thảm cỏ Yên xanh biếc 
Là đà dâu Tần xanh 
Chàng nghĩ ngày trở lại 
Lúc thiếp xuyến xao tình 
Trách gió xuân xa lạ 
Thổi màn lụa lung linh 
*
Bài 2 
 *
Cỏ Yên tơ biếc một mầu 
La đà mặt đất Tần dâu xanh rì 
Lúc chàng mong ngóng ngày về 
Là khi trong thiếp tái tê cả hồn 
Gió xuân chả biết nguồn cơn 
Vờn chi màn lụa gây buồn lòng ta
SongNguyễn HànTú

unnamed
春 宿 左 省
花 隱 掖 垣 暮
啾 啾 棲 鳥 過
星 臨 萬 戶 動
月 傍 九 霄 多
不 寢 聽 金 鑰
因 風 想 玉 珂
明 朝 有 封 事
數 問 夜 如 何
杜 甫
*
Xuân Túc Tả Tỉnh 
Hoa ẩn dịch viên mộ 
Thu thu thê điểu qua 
Tinh lâm vạn hộ động 
Nguyệt bạng cửu tiêu đa 
Bất tẩm thính kim thược 
Nhân phong tưởng ngọc hà 
Minh triêu hữu phong sự 
Sổ vấn dạ như hà? 
Đỗ Phủ
*
(đêm xuân trực văn phòng bên trái cung vua)
(lúc chiều hoa lấp ló bên vách tường thấp)
(chim gọi nhau bay về tổ) 
(sao nhấp nháy chiếu trên mọi nóc nhà)
(trăng chiếu sáng từ chín từng mây)
( thao thức nghe thấy tiếng [mở ] ổ khóa vàng)
(vẳng trong gió như tiếng nhạc ngựa) 
(sáng mai phải có [sẵn sàng] tấu chương)
(về các câu hỏi : đêm qua [sự việc] thế nào?)
*
Phiên Trực Xuân
*
Ven tường hoa núp bóng chiều
Gọi nhau về tổ chim kêu vang thềm
Vạn nhà điểm ánh sao đêm
Ánh trăng xuyên sáng chín thềm mây giăng
Tỉnh nghe vẳng tiếng khóa vàng
Âm như nhạc ngựa khua trong gió hòa
Sáng trình bài tấu dâng vua
Hẳn người sẽ hỏi truyện qua đêm rồi

SongNguyễn HànTú

unnamed

春 望
國 破 山 河 在
城 春 草 木 深
感 時 花 濺 淚
恨 別 鳥 驚 心
烽 火 連 三 月
家 書 抵 萬 金
白 頭 搔 更 短
渾 欲 不 勝 簪
杜 甫
*
Xuân Vọng 
Quốc phá sơn hà tại 
Thành xuân thảo mộc thâm 
Cảm thời hoa tiễn lệ 
Hận biệt điểu kinh tâm 
Phong hỏa liên tam nguyệt 
Gia thư để vạn kim 
Bạch đầu tao cánh đoản 
Hồn dục bất thăng trâm
 Đỗ Phũ
*
(ngắm cảnh xuân)(Triều đình [nhà Đường] bị tàn phá, núi sông vẫn còn đây)
(cỏ cây xanh tốt vì tiết xuân trong thành [Trường An])
(hoa cảm với thời thế mà như rơi lệ)
(chim cũng kinh sợ, oán hận chuyện biệt ly)
(lửa báo nguy trên đài cao đốt liền 3 tháng)
(thư nhà quý như vạn lạng vàng)
(tóc bạc xoa thấy ngắn dần)
(có muốn cài trâm cũng không cài được)
 *
Ngắm cảnh Xuân
*
Dù cho vận nước tối tăm 
Giang sơn gấm vóc ngàn năm vẫn còn 
Mùa xuân cây cỏ xanh mơn 
Hoa vương tình nhỏ lệ buồn xót xa 
Chim lìa ngán cảnh can qua 
Lửa tên ngùn ngụt suốt ba tháng ròng 
Thư nhà quí đáng ngàn vàng 
Lưa thưa tóc trắng như sương hết rồi 
Chả còn giữ được trâm cài
SongNguyễn HànTú

unnamed

出 塞
秦 時 明 月 漢 時 關
萬 里 長 征 人 未 還
但 使 龍 城 飛 將 在
不 教 胡 馬 渡 陰 山
王 昌 齡
*
Xuất Tái 
Tần thời minh nguyệt Hán thời quan 
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn 
Đản sử Long Thành phi tướng tại 
Bất giao Hồ mã độ Âm san. 
Vương Xương Linh
*
(ra biên ải)([vẫn là] trăng đời Tần và quan ải đời Hán)
(những người đi chinh chiến xa vạn dặm vẫn chưa được về) 
(ví như tại Long Thành còn viên tướng xung trận như bay [Lý Quảng])
(thì sẽ không để cho ngựa Hồ vượt qua được núi Âm sơn)
*
Ra Cửa ẢiTrăng
Tần sáng đất Hán vương 
Vó câu chinh chiến dặm trường khuất mây 
Phải Long Phi Tướng còn đây 
Ngựa Hồ há vượt ải này Âm Sơn 
SongNguyễn HànTú

unnamed
出 塞
黃 河 遠 上 白 雲 間
一 片 孤 城 萬 仞 山
羌 笛 何 須 怨 楊 柳
春 風 不 度 玉 門 關
王 之 渙
*
Xuất Tái 
Hoàng hà viễn thướng bạch vân gian 
Nhất phiến cô thành vạn nhận san 
Khương địch hà tu oán dương liễu 
Xuân phong bất độ Ngọc môn quan 
Vương Chi Hoán
(ra biên ải)(sông Hoàng hà chảy thật xa [trông như] leo lên tầng mây trắng)
(một cái thành lẻ loi trên quả núi cao vạn nhận)
(rợ Khương đâu cần thổi sáo bài Chiết Liễu [gợi quân ta nhớ nhà])
([vì] gió xuân đâu có đem [điệu sáo này] tới ải Ngọc Môn quan) 
*
Ra Quan Ải
Cuối trời sông gắn liền mây 
Thành cao một bóng tháng ngày chơi vơi 
Thổi chi Chiết Liễu Khương ơi 
Gió Xuân đâu tới vùng trời Ngọc Môn 
SongNguyễn HànTú

unnamed

昌 谷 北 園 新 筍
斫 取 青 光 寫 楚 辭
膩 香 春 粉 黑 離 離
無 情 有 恨 何 人 見
露 壓 煙 啼 千 萬 枝
李 賀
*
Xương Cốc Bắc Viên Tân Duẩn
Chước thủ thanh quang tả Sở từ 
Nhị hương xuân phấn hắc li li 
Vô tình hữu hận hà nhân kiến ? 
Lộ áp yên đề thiên vạn chi 
Lý Hạ
*
(măng tre mới mọc ở vườn bắc Xương Cốc)
(lột [nang] cho da tre lộ ra xanh nhãn bóng để viết bài thơ theo Sở Từ) 
(mùi tre nồng nồng, phấn tre mới mẻ, nét mực đen nhánh)
(thân tre vô tình, có [mang bài thơ] sầu hận, ai mà thấy được?) 
([vì] móc nhạt nhòa, sương khói che phủ cả muôn ngàn cành) 
*
Măng Non Ở Vườn Bắc Xưong Cốc
*
Đề thơ trên vỏ tre xanh bóng 
Hương nồng, xuân phấn, mực long lanh
Mang dấu hận sầu ai hay biết
Móc sa, khói phủ ngập cây cành
SongNguyễn HànTú

unnamed

閭 門 即 事
耕 夫 召 募 愛 樓 船
春 草 青 青 萬 頃 田
試 上 吳 門 窺 郡 郭
青 明 幾 處 有 新 煙
張 繼
*
Xương Môn Tức Sự 
Canh phu triệu mộ trục lâu thuyền 
Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền 
Thí thướng Ngô Môn khuy quận quách 
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên ? 
Trương Kế
Ghi chú: Xương Môn hay Ngô Môn, đều là cửa phía nam của Thành Tô Châu
(câu chuyện ở cửa Xương Môn)
(dân cày bị bắt đi lính, lùa lên chiến thuyền) 
([vì thế] cỏ xuân mọc xanh um trên cả vạn cánh đồng) 
(thử lên cửa Ngô Môn mà nhìn ra vùng ngoại ô)
([đang] tiết thanh minh rồi mà có mấy nơi có khói mới ?) 
 *
Sự Việc Ở Cửa Xương
*
Dân cày bị bắt xuống thuyền binh 
Ruộng mạc xuân về rặt cỏ xanh 
Quá bước Ngô môn nhìn quanh quẩn 
Đó đây sao vắng khói Thanh Minh
SongNguyễn HànTú

unnamed
宴 東 堿 莊
一 年 又 過 一 年 春
百 歲 曾 無 百 歲 人
能 向 花 中 幾 回 醉
十 千 沽 酒 莫 辭 貧
崔 敏 童
*
Yên Đông Thành Trang
Nhất niên hựu quá nhất niên xuân 
Bách tuế tằng vô bách tuế nhân 
Năng hướng hoa trung kỷ hồi túy 
Thập thiên cô tửu mạc từ bần 
Thôi Mẫn Đồng
*
(dự tiệc tại nhà Đông Thành)
(mỗi năm sẽ đem qua đi một tuổi xuân)
([đời người thọ] trăm năm nhưng chưa từng có ai trăm tuổi)
([vậy] còn có thể say bên hoa vài dịp nữa)
([thì có phải] mua mười ngàn đồng rượu cũng đừng nói [giàu] nghèo)
*
Dự Tiệc Ở Nhà Đông Thành
*
Năm qua lại hết một mùa xuân
Trăm năm, trăm tuổi có đâu phần
Biết uống bên hoa bao lần nữa
Vạn tiền đấu rượu chẳng phân vân
SongNguyễn HànTu
Comments
  1. maiphucducyb says:

    Người giỏi sưu tầm thế .
    Đọc nhiều sách cổ kim .
    Thật khó người sánh được .
    Ta đã Thỏa công tìm

  2. nguyentamhan says:

    Đất trời đẹp như hoa
    Con người như chiếc lá
    Biển học rộng bao la
    Mình chưa bằng cục đá

    nth

Leave a comment