** Tập 1 Đường Thi – SNHT

a non bo 06

unnamed

飲 酒 看 牡 丹

今 日 花 前 飲
甘 心 醉 數 杯
但 愁 花 有 語
不 為 老 人 開

劉 禹 錫

Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn 
*** 
Kim nhật hoa tiền ẩm 
Cam tâm túy sổ bôi 
Đản sầu hoa hữu ngữ 
Bất vị lão nhân khai. 
*** 
Lưu Vũ Tích

Dịch nghĩa:
(uống rượu, xem hoa mẫu đơn)
(hôm nay uống rượu trước hoa)
(đành lòng say sưa vài chén)
(nhưng ta buồn, vì nếu hoa nói được)
(sẽ nói: ta nở không phải vì ông già đâu)

*****
Xem Hoa

Trước hoa ly rượu vân vê
Hứng cao nhấm nháp vài ly đỡ buồn
Nếu hoa nói được sẽ hờn
Rằng hoa chẳng nở vì thương tình già.
***
SongNguyễn HànTú


unnamed

鸚 鵡 洲

鸚 鵡 來 過 吳 江 水
江 上 洲 傅 鸚 鵡 名
鸚 鵡 西 飛 隴 山 去
芳 洲 之 樹 何 青 青
煙 開 蘭 葉 香 風 起
岸 夾 桃 花 錦 浪 生
遷 客 此 時 徒 極 目
長 洲 孤 月 向 誰 明

李 白

Anh Vũ Châu
***
Anh vũ lai quá Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan diệp hương phong khởi
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh?
***
Lý Bạch

Ghi chú: Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang ở tỉnh Quý Châu.
Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.

bãi sông Anh Vũ
***
chim anh vũ (vẹt) thường bay qua khúc sông đất Ngô này
vì thế bãi cát ở quãng sông này tên là Anh Vũ
vẹt bay về núi Lũng ở phía tây
cây cối trên bãi cỏ thơm này xanh tốt biết bao
sương khói là là, hương lan ngát trong gió
sát bờ, lớp sóng mang theo hoa đào nhấp nhô như gấm
kẻ lưu đầy này hờ hững ngắm cảnh lúc đó
vầng trăng lẻ loi trên bãi dài soi ai vậy?

*******

Bãi Anh Vũ
***
Vẹt trời thường vượt Ngô giang
Bay về núi Lũng họp đàn trời tây
Gọi tên Anh Vũ bãi này
Mùi hoa phảng phất, cỏ cây xanh rờn
Nụ lan vừa hé nụ thơm
Tỏa theo khói sóng một thềm gấm hoa
Nơi đây trời đất bao la
Vì ai trăng chiếu? Phận ta lưu đầy!
***
SongNguyễn HànTú


unnamed

鸚鵡洲春望

悵望春襟鬱未開
重臨鸚鵡益堪哀
曹公尚不能容物
黃祖何因反愛才
幽島暖聞燕雁去
曉江晴覺蜀波來
誰人正得風濤便
一點輕帆萬里回

崔塗

Anh Vũ Châu Xuân Vọng
***
Trướng vọng xuân khâm uất vị khai 
Trùng lâm Anh Vũ ích kham ai 
Tào công thượng bất năng dung vật 
Hoàng Tổ hà nhân phản ái tài 
U đảo noãn văn Yên nhạn khứ 
Hiểu giang tình giác Thục ba lai 
Thùy nhân chính đắc phong đào tiện 
Nhất điểm khinh phàm vạn lý hồi.
***
Thôi Đồ

Ghi chú: Anh Vũ châu là 1 bãi trên sông Trường Giang, phía tây nam huyện Hán Dương,
tỉnh Hồ Bắc. Thời Tam Quốc, Nể Hành có tài văn thơ, nhưng tính cao ngạo, bị Tào Tháo ghét .
Tào Tháo mượn tay Hoàng Tổ giếtt, xác chôn tại bãi này.

Dịch nghĩa:
(ngắm cảnh xuân trên bãi Anh Vũ)
(buồn bã ngắm cảnh xuân mà u uất chưa nguôi)
(khi trở lại bãi sông Anh Vũ đầy xót xa này)
(Tào Tháo đã không dung ai rồi)
(thì Hoàng Tổ sao dám trọng tài ai)
(đảo vắng nghe thấy nhạn xứ Yên bay đi)
(sông lặng sáng sớm cảm được sóng xứ Thục tới)
(ai là người có sóng gió huận tiện)
(để đưa một cánh buồm nhẹ từ muôn dặm trở về)

Ngắm cảnh xuân nơi bãi Anh Vũ
***
Nhìn sầu thảm, cả lòng xuân u uẩn
Xót xa thêm nơi Anh Vũ bãi sông
Ai đã từng bị Tào Tháo bất dung
Thì Hoàng Tổ trọng người tài sao đặng
Nhạn xứ Yên bay xa rời đảo vắng
Sóng Thục tràn trên sông lặng ban mai
Nào ai người thuận sóng gió ý trời
Cho buồm nhẹ được xuôi về bến cũ.
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

巴嶺答杜二見憶 

臥向巴山落月時
兩鄉千里夢相思
可但部兵偏愛酒
乜知光祿最能詩
江頭赤葉楓愁客
籬外黃花菊對誰
歧馬望君非一度
冷猿秋雁不勝悲

嚴武

Ba Lĩnh Đáp Đỗ Nhị Kiến Ức 

Ngọa hướng Ba sơn lạc nguyệt thì 
Lưỡng hương thiên lý mộng tương tư 
Khản đản bộ binh thiên ái tửu 
Dã tri quang lộc tối năng thi 
Giang đầu xích diệp phong sầu khách 
Ly ngoại hoàng hoa cúc đối thùy 
Kỳ mã vọng quân phi nhất độ 
Lãnh viên thu nhạn bất thăng bi 
*
Nghiêm Võ
*
Dịch Nghĩa :
(ở núi Ba, đáp lại bài thơ Đỗ Nhị gửi tặng)
*
(nằm hướng về núi Ba lúc trăng lặn)
(mơ tưởng tới nhau dù hai quê cách ngàn dặm)
(kẻ bộ binh này chỉ ưa thích rượu)
(quan quang lộc làm thơ giỏi nhất)
(lá phong đỏ ở đầu sông làm khách buồn)
(hoa cúc vàng bên dậu đang nở vì ai)
(đã hơn một lần ghìm ngựa hướng trông về quê ông)
(chỉ thấy vượn đông nhạn thu thật là buồn)
*
Ghi chú: Đỗ Nhị tức là Đỗ Phủ, vì ông là con thứ hai trong gia đình.
*****
Đáp Thư Đỗ Phủ
***
Nằm hướng núi Ba
Lúc trăng dần khuất
Nhớ về người quê ngàn xa cách biệt
Bên men nồng riêng gã võ quan này
Quang Lộc người đã nức tiếng thơ hay
Lòng buồn bã nhìn lá phong đổi sắc
Nơi quan ải, bờ dậu đầy hoa cúc
Đã bao lần ghìm cương ngựa ngóng ai
Vượn tái tê
Cánh thu nhạn…
Ngậm ngùi
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

灞上秋居 

灞原風雨定
晚見雁行頻
落葉他鄉樹
寒燈獨夜人
空園白露滴
孤壁野僧鄰
寄臥郊扉久
何年致此身 

馬戴

Bá Thượng Thu Cư 
*** 
Bá nguyên phong vũ định 
Vãn kiến nhạn hàng tần
Lạc diệp tha hương thụ 
Hàn đăng độc dạ nhân
Không viên bạch lộ trích
Cô bích dã tăng lân
Ký ngọa giao phi cửu
Hà niên trí thử thân?

Mã Đới 
Dịch nghĩa:
*
(mùa thu trên sông Bá)
*
(thảo nguyên bên sông Bá đã ngớt gió mưa)
(chiều đến thấy nhiều cánh nhạn)
(cây cối nơi đất khách đang rụng lá)
(đêm đến mình ta bên đèn lạnh lẽo)
(móc trắng nhiễu từng giọt trong vườn hoang)
( tường bên có vị sư chùa làng cô quả)
(nằm nhờ nơi xa vắng này đã lâu)
(năm nào thân này mới hữu dụng?)
*****

Thu Nơi Sông Bá
***
Quanh vùng sông Bá dứt mưa sa
Lác đác trên không nhạn la đà
Chiều xế quê người nhìn lá rụng
Đèn mờ chiếc bóng đợi đêm qua
Vườn hoang móc đọng rơi từng giọt
Nhà khuất tường bên ẩn sãi già
Miền quê năm tháng thân này gửi
Việc nước năm nào được tham gia?
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú


unnamed

灞上秋居 

灞原風雨定
晚見雁行頻
落葉他鄉樹
寒燈獨夜人
空園白露滴
孤壁野僧鄰
寄臥郊扉久
何年致此身 

馬戴

Bá Thượng Thu Cư 
*** 
Bá nguyên phong vũ định 
Vãn kiến nhạn hàng tần
Lạc diệp tha hương thụ 
Hàn đăng độc dạ nhân
Không viên bạch lộ trích
Cô bích dã tăng lân
Ký ngọa giao phi cửu
Hà niên trí thử thân?

Mã Đới 
Dịch nghĩa:
*
(mùa thu trên sông Bá)
*
(thảo nguyên bên sông Bá đã ngớt gió mưa)
(chiều đến thấy nhiều cánh nhạn)
(cây cối nơi đất khách đang rụng lá)
(đêm đến mình ta bên đèn lạnh lẽo)
(móc trắng nhiễu từng giọt trong vườn hoang)
( tường bên có vị sư chùa làng cô quả)
(nằm nhờ nơi xa vắng này đã lâu)
(năm nào thân này mới hữu dụng?)
*****

Thu Nơi Sông Bá
***
Quanh vùng sông Bá dứt mưa sa
Lác đác trên không nhạn la đà
Chiều xế quê người nhìn lá rụng
Đèn mờ chiếc bóng đợi đêm qua
Vườn hoang móc đọng rơi từng giọt
Nhà khuất tường bên ẩn sãi già
Miền quê năm tháng thân này gửi
Việc nước năm nào được tham gia?
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

薄 暮 

江 水 長 流 地
山 雲 薄 暮 時
寒 花 隱 亂 草
宿 鳥 擇 深 枝
舊 國 見 何 日
高 秋 心 苦 悲
人 生 不 再 好
鬢 髮 自 成 絃

杜 甫

Bạc mộ
*
Giang thủy trường lưu địa
Sơn vân bạc mộ thì
Hàn hoa ẩn loạn thảo
Túc điểu trạch thâm chi
Cựu quốc kiến hà nhật?
Cao thu tâm khổ bi
Nhân sinh bất tái hảo
Mấn phát tự thành ty
*
Đổ Phủ
Dịch nghĩa:
(nhá nhem chiều)
(chỗ này dòng sông chảy quanh co)
(mây núi trên nền trời xế chiều)
(hoa thấp thoáng trong đám cỏ hoang)
(chim kiếm cành cao làm chỗ nghỉ đêm)
(đất nước cũ ngày nào mới thấy lại?)
(lòng buồn khổ trong cảnh thu man mác)
(người ta ít có dịp may trở lại)
(vì chẳng mấy chốc đầu đã bạc trắng)

Chiều Xuống

***
Chốn đây dòng nước vẫn êm trôi
Nơi cuối chân mây núi sẫm rồi
Hoa dại đong đưa bên đám cỏ
Cành cao chim đậu giữa chiều rơi

Ngày nào trở lại núi sông xưa ?
Man mác trời thu luống thẫn thờ
Vận tốt hẳn đi không trở lại
Lòng buồn mấy chốc tóc như tơ
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

泊秦淮 

煙籠寒水月籠沙
夜泊秦淮近酒家
商女不知亡國恨
隔江猶唱後庭花

杜牧

Bạc Tần Hoài
*
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng “Hậu Đình Hoa”.
*
Đỗ Mục
***
Dịch Nghĩa:
*
(ghé bến sông Tần Hoài)
*
(sông lạnh mờ trong khói, ánh trăng giãi trên cát)
(đêm ghé bến trên sôngTần Hoài, cạnh quán rượu)
(đào hát không biết mối hận mất nước của bài hát)
(nên bên kia sông vẫn hát bài “Hậu Đình Hoa”)
***
Ghi chú: Tần Hoài, tức sông Hoài, phát nguyên từ t. Hà Nam, qua t. An Huy, t. Giang Tô,
vào hồ Hồng Trạch rồi mới ra biển Đông.
Hậu Đình Hoa: tên khúc hát ủy mị thịnh hành cuối đời Trần Hậu Chủ, ông vua 
hoang dâm, xa xỉ vô độ để nhà Trần mất nước về tay nhà Tùy năm 589.

*****
Đậu Thuyền Trên Bến Sông Tần Hoài
***
Khói lan, trăng giãi mơ hồ
Đêm khuya thuyền đậu bên bờ Hoài giang
Quặn lòng nghe vẳng bên sông
“Hậu Đình Hoa” vẫn rượu nồng vui ca.
***
SongNguyễn HànTú


unnamed

百舌 

百舌來何處
重重祇報春
知音兼眾語
整翮豈多身
花密藏難見
枝高聽轉新
遇時如發口
君側有讒人

杜甫

Bách Thiệt

***
Bách thiệt lai hà xứ?
Trùng trùng chỉ báo xuân
Tri âm kiêm chúng ngữ 
Chỉnh cách khởi đa thân
Hoa mật tàng nan kiến
Chi cao thính chuyển tân 
Ngộ thì như phát khẩu
Quân trắc hữu xàm nhân 
*
Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
(trăm lưỡi, ý nói con chim khiếu)
(chim khiếu từ đâu lại đây?)
(hàng đàn báo hiệu mùa xuân)
(biết nhại tiếng mọi loài)
(khi múa cánh như có nhiều thân)
(ẩn trong hoa rậm khó thấy)
(trên cành cao nghe càng hay)
(gặp ông, nếu nó mở miệng)
(bên ông như có người nói xàm)
*

Chim Khiếu
***
Khiếu ơi từ đâu đến
Làm rộn rã mùa xuân
Líu lo bao giọng hót
Múa như ẩn nhiều thân

Trong bụi hoa rậm rạp
Hay trên cành vút cao
Vừa véo von tiếng hót
Lời thế nhân xì xào
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

白雲泉 

天平山上白雲泉
雲自無心水自閑
何必奔衝山下去
更添波浪向人間

白居易

Bạch Vân Tuyền 
*** 
Thiên Bình sơn thượng Bạch Vân tuyề
Vân tự vô tâm thủy tự nhàn
Hà tất bôn xung sơn hạ khứ
Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian
*
Bạch Cư Dị
***
Dịch Nghĩa:
(suối Bạch Vân)
(trên núi Thiên Bình có suối Bạch Vân)
(mây tự nó vô tâm, nước tự nó êm đềm)
(đâu cần phải đổ xô xuống núi)
(gây thêm lụt lội cho người ta)
*****

Suối Bạch Vân
***
Bài 1
Bạch Vân ẩn giữa Thiên Bình
Mây ôm lờ lững vui tình gió trăng
Được chi bỏ núi xuống đồng
Quyện trong nhân thế trùng trùng phong ba

Bài 2
Quanh co dòng Bạch lưng trời
Mây ôm, núi quyện êm trôi tháng ngày
Phải không nhập cõi thế này
Có đâu chịu cảnh đọa đầy nhân sinh
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

拜新月 

開簾見新月
即便下階拜
細語人不知
北風吹裙帶

李端

Bái Tân Nguyệt

*
Khai liêm kiến tân nguyệt
Tức tiện há giai bái
Tế ngữ nhân bất tri
Bắc phong xuy quần đái.
*
Lý Đoan
Dịch nghĩa
(lạy trăng non)
(vén rèm lên thấy mảnh trăng non)
(vội bước xuống thềm vái lạy)
(lẩm bẩm khấn không ai nghe được)
(gió bấc thổi dải quần bay bay)

Lạy Trăng Non

Bài 1
Vén rèm thấy trăng mới
Vội quì xuống vái lạy
Khấn gì ai biết tới
Dải quần gió bay bay.

Bài 2
Trăng non một giải bên rèm
Bước ra quì xuống bên thềm vái van
Nghe như tiếng thở lời than
Trước làn gió bấc dải quần bay bay.
*
SongNguyễn Hàn Tú

unnamed

罷相作 

避賢初罷相
樂聖且銜杯
為問門前客
今朝幾個來

李適之

Bãi Tướng Tác
*
Tị hiền sơ bãi tướng
Lạc thánh thả hàm bôi
Vị vấn môn tiền khách
Kim triêu kỷ cá lai?
*
Lý Thích Chi
Dich nghĩa:
(viết bài này khi thôi làm tướng)
(vừa thôi làm tướng, như các bậc hiền ở ẩn)
(nào uống chén rượu như các vị thánh yên vui)
(xin hỏi vị khách ở trước cửa)
(sáng nay quý vị tới mấy người?)

*****

Làm Khi Nghỉ Chức Tướng
***
Tựa người lánh ẩn, trả quan rồi
Yên nhàn như thánh uống vui chơi
Này ông, khách quý đang ngoài ngõ
Quý vị sáng nay tới mấy người?

SongNguyễn HànTú

unnamed

貧交行 

翷手作雲覆手雨
紛紛輕薄何須數
君不見管鮠貧交時
此道今人棄如土

杜甫

Bần giao hành
*
Phiên thủ tác vân, phúc thủ vũ 
Phân phân khinh bạc hà tu số
Quân bất kiến Quản Bảo bần thì giao?
Thử đạo kim nhân khí như thổ

Đỗ Phủ
*
Dịch Nghĩa:
(bài hành tình bạn thủa hàn vi)
(bài hành tình bạn thủa hàn vi)
(cái thói lật lọng đầy rẫy không đếm xuể)
(ông không thấy tình bạn Quản Bảo lúc nghèo sao?)
(thứ tình bạn đó người đời nay coi rẻ như cục đất)

Ghi chú : Quản & Bảo, tức Quản Trọng và Bảo Thùc Nha, 
người thời Xuân Thu, thủa hàn vi kết bạn tri kỷ.
Sau đều làm quan to. Khi Quản mắc tội có thể bị
xử chém, Bảo hết sức biện bạch cho bạn thoát nạn.
*******

Bài ca Thủa Hàn Vi
***
Xoay chuyển bàn tay đổi mây mưa
Thói đời khinh bạc mấy cho vừa
Bảo Quản nghĩa tình gương có thấy ?
Đời giờ coi rẻ tựa bùn dơ.
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

班婕妤 

怪來粧閣閉
朝下不相迎
總向春園裏
花間笑語聲

王維

Ban Tiếp Dư
*
Quái lai trang các bế
Triều há bất tương nghinh
Tổng hướng xuân viên lý
Hoa gian tiếu ngữ thanh
*
Vương Duy
Dịch nghĩa:
(nữ quan chức Tiếp Dư họ Ban)
(Quái lạ! Sao nơi làm việc đóng cửa?)
(các quan trong triều lại không ai đón tiếp)
(tất cả đều hướng về vườn đang xuân
(nghe thấy tiếng cười trong lùm hoa)

Nử Quan Họ Ban
***
Bài 1
Ô lạ nhỉ lầu trang đóng kín
Bạn đồng liêu chẳng được tiếp nghênh
Kìa hình như nơi cuối vườn xuân
Tiếng khúc khích giữa vòm hoa nở

Bài 2
Lầu trang đóng kín lạ lùng chưa
Bạn ghé chơi sao chẳng đón đưa
Hình như cuối ngả vườn xuân đó
Có tiếng vui cười giữa đám hoa
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

班婕妤 

怪來粧閣閉
朝下不相迎
總向春園裏
花間笑語聲

王維

Ban Tiếp Dư
*
Quái lai trang các bế
Triều há bất tương nghinh
Tổng hướng xuân viên lý
Hoa gian tiếu ngữ thanh
*
Vương Duy
Dịch nghĩa:
(nữ quan chức Tiếp Dư họ Ban)
(Quái lạ! Sao nơi làm việc đóng cửa?)
(các quan trong triều lại không ai đón tiếp)
(tất cả đều hướng về vườn đang xuân
(nghe thấy tiếng cười trong lùm hoa)

Nử Quan Họ Ban
***
Bài 1
Ô lạ nhỉ lầu trang đóng kín
Bạn đồng liêu chẳng được tiếp nghênh
Kìa hình như nơi cuối vườn xuân
Tiếng khúc khích giữa vòm hoa nở

Bài 2
Lầu trang đóng kín lạ lùng chưa
Bạn ghé chơi sao chẳng đón đưa
Hình như cuối ngả vườn xuân đó
Có tiếng vui cười giữa đám hoa
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

不見 

不見李生久
佯狂真可哀
世人皆欲殺
吾意獨憐才
敏捷詩千首
飄零酒一杯
匡山讀書處
頭白好歸來

杜甫

Bất Kiến 

Bất kiến Lý sinh cửu 
Dương cuồng chân ngã ai 
Thế nhân giai dục sát 
Ngô ý độc lân tài 
Mẫn tiệp thi thiên thủ 
Phiêu linh tửu nhất bôi 
Khuông sơn độc thư xứ 
Đầu bạch hảo quy lai. 

Đỗ Phủ

(không gặp)

(đã lâu không gặp ông Lý 
(ta rất thương xót ông phải giả điên)
(người đời ai cũng muốn giết ông)
(riêng ta thì vẫn mến tài của ông)
(ông làm thơ rất mau, đã có cả ngàn bài rồi)
(lúc nào cũng ngất ngưởng với chén rượu)
( thư phòng ở núi Khuông)
(chắc là chỗ tốt để ông trở về khi đầu bạc)

Không Gặp

Lâu rồi không gặp Lý huynh
Người vui trăng nước mặc tình thế nhân
Giả ngơ như một gã điên
Người đời căm ghét, tình riêng tôn thờ
Trời cho ông một túi thơ
Ngả nghiêng bầu rượu, chẳng mơ công hầu
Núi Khuông đèn sách ẩn sâu
Chắc mai sau, lúc bạc đầu về đây.

SongNguyễn Hàn Tú

unnamed

八陣圖 
功蓋三分國
名成八陣圖
江流石不轉
遺恨失吞吳杜甫Bát Trận Đồ 

Công cái tam phân quốc 
Danh thành Bát Trận Đồ 
Giang lưu thạch bất chuyển 
Di hận thất thôn Ngô 
Đỗ Phủ

(trận đồ Bát Quái)

(có công lớn trong thế nước chia ba)
(do đó Trận Đồ Bát Quái nổi danh)
(nước sông chảy mà đá xếp không chuyển)
(đánh Ngô, bị thua, ôm hận chạy về đây)

Trận Bát Quái

Ngày nào Tam Quốc phân tranh
Trận Đồ Bát Quái lừng danh khắp trời
Nước dâng đá chẳng chuyển rời
Mãi mang hận đã lỡ thời chiếm Ngô

SongNguyễn HànTú

unnamed

悲青板 

我軍青板在東門
天寒飲馬太白窟
黃頭奚兒日向西
數騎彎弓敢馳突
山雪河冰野蕭瑟
青是烽煙白是骨
焉得附書與我軍
忍待明春莫倉卒

杜甫

Bi Thanh Bản

Ngã quân Thanh Bản tại đông môn 
Thiên hàn ẩm mã Thái bạch quật 
Hoàng đầu Hề nhi nhật hướng tây 
Sổ kỵ loan cung cảm trì đột 
Sơn tuyết hà băng dã tiêu sắt 
Thanh thị phong yên, bạch thị cốt 
Diên đắc phụ thư dữ ngã quân 
Nhẫn đãi minh xuân mạc thảng thốt. 

Đỗ Phủ

Dich nghĩa:
(thương [chiến sĩ ở] Thanh Bản)
(quân ta dồn về cửa đông thành Thanh Bản)
(trời lạnh, ngựa uống nước ở vũng Thái Bạch)
(xế chiều, giặc Hề thuộc bộ tộc Hoàng đầu)
(vài đứa giương cung xốc ngựa chạy tới [khiêu chiến])
(tuyết phủ núi, sông đóng băng, đồng cỏ tiêu điều)
(khói trận xanh xanh, xương hoang trăng trắng)
(ví như được gửi thư cho quân ta)
([nhắn] ráng chờ sang xuân, chớ vội [ra đánh])

Ghi chú: Đỗ Phủ làm bài này cảm thương chiến sĩ ở thành Thanh Bản 
do tướng Phòng Quán chỉ huy đang đương đầu với phiến quân của An Lộc Sơn. 

Thương Quân Trấn Đóng Thanh Bản

Quân ta đóng vùng cửa đông Thanh Bản
Ngựa cầm hơi nước vũng Thái giá băng
Trời nhá nhem, nhóm bộ tộc Đầu Vàng
Sai vài đứa soải vó câu quấy rối
Núi tuyết phủ, sông băng, đồng cằn cỗi
Giữa trắng xanh lẫn khói trận, xương người
Ước gì thư ta gửi được tới nơi
Khuyên hãy đợi sang xuân trời nắng ấm.

SongNguyễn HànTú

unnamed

悲陳陶 

孟冬十郡良家子
血作陳陶澤中水
野曠天清無戰聲
四萬義軍同日死
群胡歸來血洗箭
仍唱胡歌飲都市
都人回面向北啼
日夜更望官軍至

杜甫

Bi Trần Đào 

Mạnh đông thập quận lương gia tử 
Huyết tác Trần Đào trạch trung thủy 
Dã khoáng thiên thanh vô chiến thanh 
Tứ vạn nghĩa quân đồng nhật tử 
Quần Hồ quy lai huyết tẩy tiễn 
Nhưng xướng Hồ ca, ẩm đô thị 
Đô nhân hồi diện hướng bắc đề 
Nhật dạ cánh vọng quan quân chí. 
Đỗ Phủ 

(xót thương trận Trần Đào)

(chớm đông, con em của gia đình mười quận)
(máu tuôn đỏ nước đầm Trần Đào)
(đồng rộng, trời trong, tiếng quân reo đã lặng)
(bốn vạn quân nhà đã chết trong ngày)
(bọn giặc Hồ trở về với những bó tên vấy đầy máu)
(chúng ca hát tiếng Hồ, uống rượu khắp phố chợ)
(Dân ở đô thị hướng về phía bắc kêu khóc)
(ngày đêm trông ngóng quan quân nhà tới)

Ghi chú: Trần Đào là địa danh ở phía đông Hàm Dương ngày nay. Khi An Lộc Sơn chiếm được kinh đô Trường An rồi, Đường Minh Hoàng chạy về Thành Đô lánh nạn ,nhưòng ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Đường 
Túc Tông tức vị tại Linh Vũ tỉnh Cam Túc, dùng Phùng Quán làm Tể tướng lo việc khôi phục giang sơn. Từ Linh Vũ, quân nhà Đường thu phục dần dần đất đai, nhưng tới Trần Đào thì bị thảm bại. Hơn bốn vạn quân bị thiệt mạng trong trận này. Phùng Quán bị cách chức. Dân Hàm Dương hướng về phía bắc, là hướng về Cam Túc để mong Túc Tông gửi cánh quân khác tới giải phóng họ đang bị giặc chiếm đóng.

Xót Thương Trận Trần Đào

Vừa chớm đông quân gom từ mười quận
Máu tuôn rơi thành vũng khắp Trần Đào
Trời trong xanh, đã lặng tiếng cung đao
Hơn bốn vạn quân nhà đà uổng tử
Tên nhuốm máu, quân Hồ đây phố chợ
Uống say sưa, vui ca hát nghêu ngao
Dân khắp vùng hướng phương bắc nghẹn ngào
Ngày đêm vọng quan quân về dẹp loạn.

SongNguyễn HànTú

unnamed

汴河亭 

廣陵花盛帝東游
先劈昆崙一派流
百二禁兵辭象闕
三千宮女下龍舟
凝雲鼓震星辰動
拂浪旌開日月浮
江海義帥歸有道
迷樓何異景陽樓

許渾

Biện Hà Đình 

Quảng Lăng hoa thịnh đế đông du
Tiên phích Côn Luân nhất phái lưu
Bách nhị cấm binh từ tượng khuyết
Tam thiên cung nữ hạ long châu
Ngưng vân cổ chấn tinh thần động 
Phất lãng tinh khai nhật nguyệt phù
Giang hải nghĩa sư quy hữu đạo
Mê lâu hà dị Cảnh Dương Lâu.
*
Hứa Hồn
Ghi chú: Trần Hậu Chủ (583-587) là ông vua cuối đời nhà Trần, hoang dâm vô độ, cho 
xây lầu Cảnh Dương để ăn chơi xa xỉ, bị nhà Tùy cướp ngôi.
Tùy Dưỡng Đề (605-616) là ông vua cuối đời nhà Tùy, cũng hoang dâm vô độ,
cũng xây lầu Mê để hưởng lạc, bị nhà Đường cướp ngôi.
***
Dịch Nghĩa:
(đình bên sông Biện Hà)
(hoa ở Quảng Lăng nở đẹp, vua đi chơi miền đông)
(trước đó đã hạ lệnh đào kênh từ núi Côn Luân)
(hai trăm cấm binh hộ tống vua rời hoàng thành)
(ba ngàn cung nữ được đi theo thuyền rồng)
(tiếng trống khiến mây ngừng bay, kinh động tinh tú
(cờ xí chạm nước, rợp mặt trăng mặt trời)
(nghĩa quân khắp nơi tìm về người có đạo đức)
(lầu Mê đâu khác lầu Cảnh Dương)
******
Đình Biện Hà
***
Quảng Lăng hoa nở rộ
Vua ngoạn cảnh miền đông
Từ núi Côn vua chiếu chỉ đào sông
Hai trăm lính rời kinh đô rầm rộ
Theo thuyền rồng cả ba ngàn cung nữ
Tiếng trống, phèng rung chuyển đến thiên hà
Cờ lê thê quấy động ánh trăng ngà
Kẻ tiết tháo ùa kiếm người đức trọng
Nhìn lầu Mê…
Như Cảnh Dương…
Vô vọng
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

邊詞 

五原春色舊來遲
二月垂楊未掛絲
即今河畔冰開日
正是長安花落時

張敬忠

Biên Từ
***
Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti
Tức kim hà bạn băng khai nhật 
Chính thị Trường An hoa lạc thì.
***
Trương Kính Trung
Dich nghĩa:
lời từ biên ải)
(ở Ngũ Nguyên xuân sắc xưa nay vẫn đến trễ)
(tháng hai rồi mà thùy dương vẫn chưa buông tơ)
(bữa nay băng bên bờ sông bắt đầu tan)
(cũng là lúc hoa ở Trường An đang rơi rụng)

*****

Lời Từ Biên Ải
***
Xuân tới Ngũ Nguyên quá muộn màng
Tháng hai dương liễu vắng tơ vương
Ven sông băng đã tan rồi đấy
Hoa chốn Trường An rụng ngập đường.
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

別董大 

拾里黃雲白日曛
北風吹雁雪紛紛
莫愁前路無知己
天下何人不識君

高適

Biệt Đổng Đại
*
Thập lý hoàng vân bạch nhật huân
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân.
*
Cao Thích
Dich nghĩa
*
(tiễn Đổng Đại)
(đám mây vàng dài cả chục dặm, mặt trời rực rỡ)
(gió bấc thổi nhạn bay đi, tuyết rơi lả tả)
(đừng buồn trên đường đi không có bạn tri kỷ)
(vì dưới gầm trời này ai mà chẳng biết ông)
*******

Tiễn Đổng Đại
***
Bầu trời rực rỡ mây vàng
Nhạn bay, tuyết đổ mênh mang khắp vùng
Ngại gì thiếu bạn đi cùng
Đại danh họ Đổng ai không mến tài.
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

別湖上亭 

好是春風沽上亭
柳條藤蔓繫離情
黃鶯住久渾相識
欲別頻啼四五聲

戎昱

Biệt Hồ Thượng Đình
*
Hảo thị xuân phong hồ thượng đình
Liễu điều đằng mạn hệ ly tình
Hoàng oanh trú cửu hồn tương thức
Dục biệt tần đề tứ ngủ thanh. 
*
Nhung Dục
giả từ đình trên hồ)
(gió xuân ở đình trên hồ mát mẻ thay)
(cây leo và cành liễu quấn quít không rời)
(ở đây lâu chim hoàng oanh quen mặt)
(khi giã từ nó hót 4, 5 tiếng)

*******
Giã Từ Đình Trên Hồ
*
Bài 1
Giữa đình hồ làn gió xuân thoảng nhẹ
Đám dây leo quấn thân liễu không rời
Chim hoàng oanh lưu luyến khách ghé chơi
Giọng thánh thót hót líu lo tiễn bước

Bài 2

Gió xuân thoảng nhẹ hồ Đình
Dây leo quấn liễu sợ tình biệt ly
Dù quen bao cảnh tới, đi
Tiếng oanh thánh thót sầu bi tiễn người
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

別房太尉墓 

他鄉復行役
駐馬別孤墳
近淚無乾土
低空有斷雲
對棋陪謝傅
把劍覓徐君
惟見林花落
鶯啼送客聞

杜甫

Biệt Phòng Thái Úy Mộ
***
Tha hương phục hành dịch
Trú mã biệt cô phần
Cận lệ vô can thổ
Đê không hữu đoạn vân
Đối kỳ bồi Tạ Truyện
Bả kiếm mịch Từ Quân
Duy kiến lâm hoa lạc
Oanh đề tống khách văn
Đỗ Phủ
***
Dich nghia:
(giã từ mộ quan Thái úy họ Phòng)
(lại đi công tác xứ người)
(dừng ngựa chào từ biệt ngôi mộ chơ vơ)
(lệ rơi ướt đất)
(cuối chân trời có đám mây lẻ tẻ)
(người từng đánh cờ với Tạ Truyện)
(từng luận kiếm với Từ Quân)
(nay ta chỉ thấy hoa rừng rơi)
(và nghe chim oanh hót tiễn khách)

Ghi chú: Tất cả các nhân vật họ Phòng, Tạ Truyện, Từ Quân
đều là người đương thời với Đỗ Phủ.

*******
Giã Từ Mộ Quan Thái Úy Họ Phòng

***
Bước công du chốn xa mờ
Lỏng cương từ tạ nấm mồ lẻ loi
Đầm đìa nườc mắt tuôn rơi
Mây vương lác đác cuối trời xa xa
Đã cùng Tạ Truyện đánh cờ
Từ Quân luận kiếm lúc xưa tưng bừng
Giờ đây hoa rụng ngập rừng
Nghe oanh tiễn bước cõi lòng ngổn ngang.

***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

別盧秦卿 

知有前期在
難分此夜中
無將故人酒
不及石尤風

司空署

Biệt Lư Tần Khanh
***
Tri hữu tiền kỳ tại
Nan phân thử dạ trung
Vô tương cố nhân tửu
Bất cập Thạch Vưu phong
Tư Không Thự
*
Ghi chú: Thạch Vưu Phong, điển tích dài dòng, ý chỉ thứ gió có thể ngăn trở người ra đi.

*******
Tiễn Biệt Lư Tần Khanh
***
Bài 1
Biết rằng người phải ra đi
Tình sâu nghĩa nặng phân ly được nào
Tiễn người chẳng chuốc rượu đào
Thạch Vưu gió cũng chẳng sao giữ người.
*
Bài 2
Đành rằng cũng phải chia tay
Biệt ly ray rứt sầu này khó nguôi
Tạ từ không chén ly bôi
Người đi chẳng quản gió trời Thạch Vưu.
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

涪江泛舟 
送韋班歸京追餞同舟日
傷春一水間
飄零為客久
衰老羨君還
花雜重重樹
雲輕處處山
天涯故人少
更益鬢毛斑杜甫

Bồi Giang Phiếm Chu
Tống Vi Ban Quy Kinh

Truy tiễn đồng chu nhật
Thương xuân nhất thủy giang
Phiêu linh vi khách cửu
Suy lão tiện quân hoàn 
Hoa tạp trùng trùng thụ
Vân khinh xứ xứ san
Thiên nhai cố nhân thiểu
Cánh ích mấn mao ban
*
Đỗ Phủ
*
Dich nghĩa
(theo thuyền trên sông Bồi
đưa tiễn Vi Ban trở về kinh đô)

(ngày tiễn chân ông về kinh trên cùng thuyền)
(trên con sông u buồn này)
(tôi là kẻ phiêu dạt đã lâu)
(đến lúc già yếu vui mừng được gặp lại ông)
(bên bờ cây cối rậm rạp trổ đầy bông)
(mây bay nhè nhẹ nơi núi non trùng điệp)
(nơi phương trời này bạn bè thiếu vắng)
(càng làm cho râu tóc bạc phơ thêm)
*****
Trên Sông Bồi Đưa Vi Ban Về Kinh
***
Bài 1
Ngày trên thuyền tiễn bác
Sông xuân cảnh u sầu
Bao năm trời lưu lạc 
Lúc già mừng gặp nhau

Hoa trên cây lớp lớp
Đỉnh núi mây giăng giăng
Xa nhà thiếu tri kỷ
Tóc bạc càng mau tăng

Bài 2

Ngồi thuyền đưa tiễn bác trên sông
Mặt nước trời xuân thật não nùng
Luân lạc lâu rồi thân viễn khách
Về già gặp lại thú không cùng
………..
Sặc sỡ mầu hoa, lớp lớp cây
Mây sầu trên đỉnh núi giăng đầy
Nơi xa nào dễ tìm tri kỷ
Mái tóc ngày càng trắng như mây
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

陪族叔刑部 
侍郎曄及中
書賈舍人至
遊洞庭洞庭湖西秋月煇
瀟湘江北早鴻飛
醉客滿船歌白紵
不知霜露入秋衣李白

Bồi Tộc Thúc Hình Bộ Thị 
Lang Hoa Cập Trung Thư Giả
Xá Nhân Chí Du Động Đình 
*
Động Đình hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi
Túy khách mãn thuyền ca “Bạch Trữ”
Bất tri sương lộ nhập thu y 
Lý Bạch

*
Dich Nghia:
(theo chú ruột là Hoa làm quan Hình Bộ Thị Lang cùng quan trực thuộc là Giả Chí đi chơi hồ Động Đình)

(trăng thu vằng vặc phía tây hồ Động Đình)
(chim hồng bay sớm về phía bắc sông Tiêu Tương)
(khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”)
(khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”)

Ghi chú: Bạch trữ, có nghĩa là vải thô màu trắng. Bài ca “Bạch Trữ” có ý cảm thưong 
dân nghèo.

*******

Đi Chơi Hồ Động Đình
*
Tây Động Đình lung linh bóng nguyệt
Bắc Tiêu Tương ríu rít chim về
Khách say “Bạch Trữ” hoan mê
Chẳng màng sương móc vương nhòe áo thu
*
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

陪鄭廣文遊 
何將軍山林不識南塘路
今知第五橋
名園依綠水
野竹上青霄
谷口舊相得
濠梁同見招
平生為幽興
未惜馬蹄遙杜甫

Bồi Trịnh Quảng Văn Du 
Hà Tướng Quân Sơn Lâm

Bất thức Nam Đường lộ
Kim tri Đệ ngũ kiều
Danh viên y lục thủy
Dã trúc thướng thanh tiêu
Cốc Khẩu cựu tương đắc
Hào Lương đồng kiến chiêu
Bình sinh vị u hứng
Vị tích mã đề diêu.

Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
(theo Trịnh Quảng Văn dạo chơi vùng rừng núi của Tướng quân họ Hà)

(không rành đường xá ở Nam Đường)
(nay mới biết đây là cây cầu số 5)
(khu vườn nổi tiếng bên dòng nước biếc)
(trúc đồng nội vươn lên tận trời xanh)
(kia Cốc Khẩu là nơi ưa thích cũ)
(đây Hào Lương là nơi ta cùng gặp gỡ)
(thườngngày chỉ thích nhàn nhã)
(nay chả tiếc vó ngựa in khá xa)

Vãn Cảnh Nơi Hà Tướng Quân

Bài 1
Nam Đường chưa dịp ghé qua chơi
Giờ lối cầu Năm đã biết rồi
Đẹp quá cảnh vườn bên nước biếc
Trúc đồng nghiêng ngả giữa mây trôi
…….
Cốc Khẩu chốn xưa lúc tuổi xuân
Hào Lương nơi gặp gỡ bao lần
Tháng năm tìm thú vui thanh thản
Chẳng ngại đường xa, ngựa đỡ chân

Bài 2
Lúc xưa chưa biết lối Nam Đường
Giờ cầu Đệ Ngũ đã đi ngang
Cảnh vườn đẹp quá bên dòng nước
Cao ngất trời mây đám trúc đồng
………….
Cốc khẩu là nơi xưa mến thương
Gặp nhau chốn ấy đất Hào Lương
Quanh năm trong thú vui nhàn tản
Chẳng quản xa xôi, ngựa đỡ đường
*
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

裴晉公 

四朝憂國鬢如絲
龍馬情神海鶴姿
天上玉書傳詔夜
陣前金甲受降時
曾經庾亮三秋月
下盡羊曇兩路椇
惆悵舊堂扃綠野
夕陽無限鳥歸遲

李郢

Bùi Tấn Công

Tứ triều ưu quốc mấn như ti
Long mã tinh thần hải hạc tư
Thiên thượng ngọc thư truyền chiếu dạ
Trận tiền kim giáp thu hàng thì
Tằng kinh Dữu Lượng tam thu nguyệt
Hạ tận Dương Đàm nhị lộ kỳ
Trù trướng cựu đường quynh Lục Dã
Tịch dương vô hạn điểu quy trì

Lý Sính
***
Dich Nghĩa:
(quanTấn quốc công họ Bùi)
(lo việc nước trải bốn triều vua tóc bạc như tơ)
(tinh thần như ngựa rồng, cốt cách như hạc biển)
(nhớ đêm vua ban chiếu phong chức)
(nhớ lúc mặc giáp vàng nhận giặc đầu hàng)
(giúp nước lâu hơn Dữu Lượng ba năm)
(mưu lược cao hơn Dương Đàm hai nước)
(lòng buồn trước Lục Dã xưa, nay đóng kín)
(nắng chiều bao la, chim chậm chạp bay về)

***
Ghi chú: Bùi Tấn Công: đời Đường Hiến Tông, Bùi Độ nhờ công dẹp giặc Hoài tây, 
được phong quan Trung thư lệnh, tướcTấn Quốc Công. Khi về hưu, ông cất một biệt thự ở Đông Đô (Lạc Dương) đặt tên là Lục Dã Đường.
Dữu Lượng: người đời Tấn, cũng được phong quan Trung thư lệnh, nổi tiếng về phong cách và lễ tiết.
Dương Đàm: người đời Tấn, giỏi cơ mưu quân sự.

*****

Quan Quốc Công Họ Bùi
***
Lo quốc sự bốn triều đầu bạc trắng
Tinh thần cao tựa hạc biển, rồng trời
Còn đâu khi vua chiếu ngọc thưởng người
Hay giữa trận áo giáp vàng trị giặc
Hơn Dữu Lượng trên ba năm giúp nước
Mưu họ Dương cao hơn hẳn hai chiêu
Lục Dã Đường giờ cửa đóng quạnh hiu
Chiều ngả bóng, chim la đà về tổ

Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

閣夜 

歲暮陰陽催短景
天涯霜雪霽寒宵
五更鼓角聲悲壯
三峽星河影動搖
野哭千家聞戰伐
夷歌數處起漁樵
臥龍躍馬終黃土
人事音書漫寂寥

杜甫

Các Dạ 
*
Tuế mộ âm dương thôi đoản cảnh 
Thiên nhai sương tuyết tế hàn tiêu 
Ngũ canh cổ giác thanh bi tráng 
Tam giáp tinh hà ảnh động dao 
Dã khốc thiên gia văn chiến phạt 
Di ca sổ xứ khởi ngư tiều 
Ngọa long dược mã chung hoàng thổ 
Nhân sự âm thư mãn tịch liêu.

Đỗ Phủ
Dịch nghĩa
(đêm Tây Các)
(ngày cuối năm qua mau)
(những ngày lạnh ở góc trời này đã ngưng tuyết)
(suốt đêm tiếng trống, tiếng tù và bi ai, hùng tráng)
(làm rung động cả dải ngân hà ở vùng Tam Giáp)
(tin giao tranh làm ngàn nhà than khóc)
(dân chài và tiều phu đâu đó vẫn ca hát nghêu ngao)
(Khổng Minh, Công Tôn Thuật cũng ra đất vàng)
(việc đời, thư tín tất cả đều vắng lặng)
***
Ghi chú: Tây Các là một xã thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, nơi có nhiều di tích 
nổi tiếng như Bát Trận Đồ của Khổng Minh. Bạch Đế thành của Công Tôn Thuật….
Ngọa long: con rồng nằm, chỉ Không Minh, quân sư của Lưu Bị, thời Tam Quốc.
Dược mã: con ngựa nhảy, chỉ Công Tôn Thuật, người nổi lên chiếm đất Thục rồi xưng đế, 
lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán.

*** 

Đêm Nơi Tây Các
*
Năm tàn vầng thái ngủ mê
Chốn đây tuyết lạnh tan đi hết rồi
Suốt đêm kèn trống liên hồi
Bóng ngân hà vỡ tả tơi mặt hồ
Chiến chinh lời oán vô bờ
Đó đây tiếng hát ngu ngơ ngư tiều
Khổng, Công thì cũng xanh rêu
Tin thư mờ mịt, tịch liêu vô cùng.
*
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

垓下 

百戰未言非
孤軍驚夜圍
山河意氣盡
淚濺美人衣

儲嗣宗

Cai Hạ
***
Bách chiến vị ngôn phi 
Cô quân kinh dạ vi 
Sơn hà ý khí tận
Lệ tiễn mỹ nhân y. 
*
Trừ Tự Tông
***
Dịch Nghĩa:
(trận Cai Hạ)
(đánh trăm trận chưa thua)
(đêm nay bị vây, quân ít, kinh hãi)
(hết ý khí tranh đoạt sơn hà)
(nước mắt ứa trên áo người đẹp)
***
Ghi chú: Cai Hạ là tên đất, ở đông nam huyện Linh Bích, tỉnh An 
Huy ngày nay. Cuối đời Tần, Lưu Bang và Hạng Võ tranh hùng.
Trận cuối, Hạng bị vây ở Cai Hạ, quân sĩ nghe tiếng tiêu ai oán 
bên quân Lưu thổi sang, nhớ nhà, bỏ trốn gần hết. Vợ Hạng là Ngu Cơ 
rút gươm tự tử. Hạng khóc vợ. Khi chạy tới Ô Giang, Hạng cũng tự sát.

*******
Trận Cai Hạ

***
Bài 1
Đã từng trăm trận tung hoành
Quân tàn, cường địch vây quanh đêm này
Bá vương mộng đã xuôi tay
Lệ anh hùng đẫm vai gầy mỹ nhân
***
Bài 2
Đã từng trăm trận
Khắp cõi tung hoành
Đêm dài cô thế địch vây quanh
Than ôi !
Mộng gom sông núi không thành
Gục vai mỹ nữ lệ tình rơi tuôn
***

Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

感故張僕射 
諸妓黃金不惜買蛾眉
揀得如花三四枝
歌舞教成心力盡
一朝身去不相隨白居易

Cảm Cố Trương Bộc Xạ Kỹ nữ
***
Hoàng kim bất tích mãi nga mi
Giản đắc như hoa tam tứ chi
Ca vũ giáo thành tâm lực tận
Nhất triêu thân khứ bất tương tùy.
Bạch Cư Dị
*
Dich nghĩa
(cảm nghĩ về các kỹ nữ ông Trương Bộc Xạ chết đi để lại)
(không tiếc vàng bỏ ra mua gái mày ngài)
(lựa ra được ba bồn cô đẹp như hoa
(dạy được các cô ca múa giỏi thì ông kiệt sức)
(một sáng kia ông chết, chẳng cô nào theo ông

***
Cảm Nghĩ Về Các Đào Hát Của Trương Bộc Xạ
***
Gái xuân sắc đem bạc vàng mua đổi
Được mấy cô đẹp lộng lẫy như hoa
Đem tâm can luyện cho giỏi hát ca
Lúc nằm xuống đâu nàng nào thương xót.
***
SongNguyễn HànTú

unnamed

琴臺 

茂陵多病後
尚愛卓文君
酒肆人間世
琴臺日著雲
野花留寶厭
蔓草見羅裙
歸鳳求凰意
寥寥不復聞

杜甫

Cầm Đài
*
Mậu Lăng đa bệnh hậu
Thượng ái Trác Văn Quân
Tửu tứ nhân gian thế
Cầm đài nhật mộ vân
Dả hoa lưu bảo yếm
Mạn thảo kiến la quần
Quy phụng cầu hoàng ý
Liêu liêu bất phục văn.

Đỗ Phủ
*******
Dich Nghia
(sân khấu tấu đàn)
(sau khi mê say gái ở Mậu Lăng)
(yêu thương Trác Văn Quân trở lại)
([sinh nhai nhờ] quán rượu trong cõi đời)
(sẩm tối tấu đàn dưới mây (cho khách nghe])
(hoa đồng nội rơi trên đồ ăn [ngon] thừa)
(cỏ dại vương trên quần lụa [của nàng])
(ý tứ trong bài “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”)
(vắng bặt không còn được nghe nữa)

Ghi chú: Mậu Lăng là địa danh nay ở huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây.
Tư Mã Tương Như, người đời nhà Hán (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) là
một nghệ sĩ giỏi chơi đàn và làm phú, nhưng nghèo khó. Trác Văn Quân
là một góa phụ, ở với cha là một danh gia cự phú. Trác mê tiếng đàn khi
Tư Mã tấu khúc “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”, bỏ nhà trốn đi theo làm vợ Tư Mã.
Hai người mở một quán rượu sinh nhai vất vả ở Mậu Lăng. Được ít lâu,
Tư Mã mê say một cô gái ở đây và muốn cưới cổ làm thiếp.
Trác phản đối. Tư Mã bỏ ý định..v..v..

*******
Đài Đàn
*
Mậu Lăng sau cơn bệnh
Càng lưu luyến Văn Quân
Cố vui đời bán rượu
Dưới mây chiều tấu đàn
Hoa đồng rơi trên chén
Gấu quần lấm cỏ vàng
Ý nhạc “Phụng Hoàng” cũ
Chẳng còn tiếng tơ vang.

SongNguyễn HànTú

unnamed

感鏡 

美 人 與 我 別
留 鏡 在 匣 中
自 從 花 顏 去
秘 水 無 芙 蓉
經 年 不 開 匣
紅 埃 覆 青 銅
今 朝 一 拂 拭
自 顧 憔 悴 容
照 罷 重 惆 悵
背 有 雙 盤 龍

白 居 易

Cảm Kính
***
Mỹ nhân dữ ngã biệt
Lưu kính tại hạp trung
Tự tòng hoa nhan khứ
Thu thủy vô phù dung
Kinh niên bất khai hạp
Hồng ai phú thanh đồng
Kim triêu nhất phất thức
Tự cố tiều tụy dung
Chiếu bãi trùng trù trướng
Bối hữu song bàn long.
Bạch Cư Dị
*
Dịch nghĩa
(cảm xúc trước gương)
(người đẹp rời xa tôi)
(để lại chiếc gương soi trong hộp)
(kể từ khi mặt hoa [nàng] đi rồi)
(làn nước thu [mặt gương] không còn sen)
(cả năm không mở hộp)
(bụi hồng đã phũ lên đồng xanh)
(sáng nay nhân phủi bụi)
(tôi thấy mặt mình bơ phờ)
(soi gương xong tôi còn buồn bã)
(khi thấy sau gương có hình hai con rồng quấn quít)

*****
Đối Gương
***
Từ khi đôi ngả chia ly
Nét xưa còn lại dấu gì trong gương
Xa nhau rồi
Khối sầu vương
Hồ thu chẳng thấy phù dung khoe mầu
Hộp gương xưa
Chẳng thèm lau
Tháng ngày bụi bám phủ mầu đồng xanh
Sáng nay phủi bụi vô tình
Đối gương chợt nhận vẻ mình xác xơ
Ngó sau lưng bỗng thẫn thờ
Thấy rồng quấn quít …buồn ngơ ngẩn lòng
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

感 遇 

期 一

孤 鴻 海 上 來
池 潢 不 敢 顧
側 見 雙 翠 鳥
巢 在 三 珠 樹
矯 矯 珍 木 巔
得 無 金 丸 懼
美 服 思 人 指
高 明 逼 神 惡
今 我 遊 冥 冥
弋 者 何 所 慕

張九齡

Cảm Ngộ

Kỳ nhất

*
Cô hồng hải thượng lai
Trì hoàng bất cảm cố
Trắc kiến song thúy điểu
Sào tại tam châu thụ
Kiểu kiểu trân mộc điên
Đắc vô kim hoàn cụ
Mỹ phục hoạn nhân chỉ
Cao minh bức thần ố
Kim ngã du minh minh
Dặc giả hà sở mộ ?
*
Trương Cửu Linh
***
Dich nghĩa:
(cảm xúc trước cảnh ngộ)
(kỳ 1)
ta là]chim hồng lẻ loi từ biển bay tới)
(không dám nhìn những chỗ có ao hồ)
(liếc nhìn đôi chim thúy)
(tổ ở trên cây tam châu)
(chót vót trên ngọn cây quý)
(đã chắc đâu không sợ tên đạn)
(mặc áo đẹp ngán người chỉ trỏ)
(khôn ngoan quá e thần ghen ghét)
(nay ta ngao du cõi vô biên
(thì bọn thợ săn nào còn dòm ngó được?)
***

Ghi chú: Tam châu thụ, như cây bách, lá có hạt như ngọc
*******
Cảm Ngộ
***
Kỳ 1
Cánh hồng một bóng lẻ loi
Lìa vùng biển rộng, ngán nơi ao hồ
Kia nhìn cặp thúy nhởn nhơ
Cây châu kết tổ khuất mờ tít cao
Cho dù ẩn lánh cách nào
Chắc đâu đã thoát hiểm nghèo đạn tên ?
Phục trang hiếm quý chả yên
Khôn ngoan thần cũng tị hiềm ghét ghen
Nhởn nhơ giữa cõi vô biên
Ngại gì cung nỏ lụy phiền đến thân
***
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

感 遇 

期 二

蘭 葉 春 葳 蕤
桂 花 秋 皎 潔
欣 欣 此 生 意
自 爾 為 佳 節
誰 知 林 棲 者
聞 風 坐 相 悅
草 木 有 本 心
何 求 美 人 折

張九齡

Cảm Ngộ
***
Kỳ nhị
*
Lan diệp xuân uy nhụy
Quế hoa thu hạo khiết
Hân hân thử sinh ý
Tự nhĩ vi giai tiết
Thùy tri lâm thê giả
Văn phong tọa tương duyệt
Thảo mộc hữu bản tâm
Hà cầu mỹ nhân chiết.

Trương Cửu Linh
***
Dich Nghĩa:
(cảm xúc trước cảnh ngộ)
(lá lan mơn mởn mượt mà gọi xuân về)
(hoa quế tươi sáng trong trắng báo thu sang)
(những lẽ sống tưng bừng ấy)
(tự chúng đã là thời tiết tốt rồi)
(ai biết được người sống trong rừng sâu)
(chỉ ngồi nghe gió thổi mà vui cùng gió?)
(cây cỏ cũng có tình riêng)
(đâu cần người đẹp vin bẻ)

************
Cảm Ngộ
*
Kỳ 2

Mùa xuân lan đẹp mưọt mà
Tiết thu trong sáng, nõn nà quế hoa
Nét thắm tươi
Tỏa chan hòa
Ngập đầy sinh khí
Bao la đất trời
Núi rừng ngày tháng quên đời
Lá thu xào xạc, lả lơi gió đùa
Tình riêng cây cỏ đong đưa
Ai cần tay ngọc bẻ tua lá cành
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

感 遇 

期 三

幽人 歸 獨 臥
滯 慮 洗 孤 清
持 此 謝 高 鳥
因 之 傅 遠 情
日 夕 懷 空 意
人 誰 感 至 情
飛 沈 理 自 隔
何 所 慰 吾 誠

張 九 齡

Cảm Ngộ
*
Kỳ tam
*
U nhân quy độc ngọa
Trệ lự tẩy cô thanh
Trì thử tạ cao điểu
Nhân chi truyền viễn tình
Nhật tịch hoài không ý
Nhân thùy cảm chí tình
Phi trầm lý tự cách 
Hà sở úy ngô thành?

Trương Cửu Linh
(cảm xúc trước cảnh ngộ)

(người an nhàn trở về nằm một mình)
(dẹp bỏ hết ý nghĩ, chợt thấy mình trống không, vắng lặng)
(nắm được thể nghiệm này, hỡi loài chim ở trên cao)
(hãy giúp ta truyền bá thể nghiệm này đi xa)
(ngày đêm ta cứ sống mãi trong ý “không” này)
(biết có ai cũng cảm nghiệm được như ta)
(bay cao hay lặn sâu, nghiệp duyên tự nhiên đã phân định)
(biết lấy gì an ủi lòng thành của ta?)

***
Ghi chú: Đến thời Trương Cửu Linh thì đạo Phật đã cực thịnh ở Trung Hoa.
Tổ Đạt Ma dao giảng thuyết “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật”,
rất giản dị: chỉ cần ở nơi tĩnh lặng, trút bỏ hết mọi ý nghỉ thiện & ác, sẽ thấy “chân tâm”,
sống mãi với “chân tâm” đó sẽ thấy “chân tánh” và thế là thành Phật. Có lẽ họ Trương
đã theo cách đó, đã thể nghiệm, và viết lên trong bài này.
*******
Cảm Ngộ 3
***
Nằm yên giữa cảnh mênh mông
Tâm trong chợt nhận chữ không tuyệt vời
Hỡi chim soải cánh bên trời
Giúp ta mang đến loài người thế gian
Ý “không” ngày tháng dâng tràn
Ai trong trời đất cùng mang ý này
Thấp, cao phân định tỏ bầy
Nghiệp duyên ai hiểu lòng này tâm trung

***
SongNguyễn HànTú

unnamed

感遇 

期四

江南有丹橘
經冬猶綠林
豈伊地氣暖
自有歲寒心
可以薦嘉客
奈何阻重深
運命惟所遇
循還不可尋
徒言樹桃李
此木豈無陰

張九齡

Cảm Ngộ
***
Kỳ tứ

Giang Nam hữu đan quất
Kinh đông do lục lâm
Khởi y địa khí noãn
Tự hữu tuề hàn tâm
Khả dĩ tiến gia khách
Nại hà trở trọng thâm
Vận mệnh duy sở ngộ
Tuần hoàn bất khả tầm
Đồ ngôn thụ đào lý
Thử mộc khởi vô âm.
***
Trương Cữu Linh
(cảm xúc trước cảnh ngộ)
(ở Giang Nam có cây quít đỏ)
(qua mùa đông vẫn xanh tốt như rừng)
(đâu vì khí hậu ở đấy ấm áp)
(mà vì tự nó có sức chịu được mùa lạnh)
(đáng được đem biếu tặng khách quý)
(ngại nỗi xa xôi cách trở)
(cuộc sống thôi cứ gặp sao hay vậy)
(chứ cái thuyết tuần hoàn không dễ tìm hiểu)
(người đời thường trồng đào, mận)
(há ra cây quít này không cho bóng mát ư)

*******
Cảm Ngộ 4

***
Đất Giang Nam có loài quít đỏ
Đông lạnh lùng lá vẫn xanh tươi
Nào phải đây ấm áp khí trời
Do bản chất chịu miền tiết lạnh
Gặp khách quí biếu tình thêm mặn
Chỉ tiếc rằng cách trở xa xôi
Đành xuôi theo số mệnh cuộc đời
Trong vũ trụ tuần hoàn khó hiểu
Đào mận đó nhân gian không thiếu
Há quít này chẳng bóng mát sao 
***
SongNguyễn HànTú

Leave a comment