** Tập 4 Đường Thi – SNHT

a non bo 04 b

unnamed

題 袁 氏 別 業

主 人 不 相 識
偶 坐 為 林 泉
莫 謾 愁 沽 酒
囊 中 自 有 錢

賀 知 章

Đề Viên Thị Biệt Nghiệp 

Chủ nhân bất tương thức 
Ngẫu tọa vị lâm tuyền 
Mạc mạn sầu cô tửu 
Nang trung tự hữu tiền 

Hạ Tri Chương

(viết về nhà riêng của họ Viên)

(ta chưa hề biết chủ nhà)
(chỉ vì thích suối rừng mà tình cờ ngồi bên nhau)
(xin đừng buồn phiền về việc mua rượu)
(vì trong túi đang có sẵn tiền)

Ngông

Dù rằng ta chẳng quen người
Suối tiên cảnh đẹp ngồi chơi chút nào
Muốn thì tí rượu chẳng sao
Có tiền chuốc một vài ngao đỡ buồn

SongNguyễn HànTú

unnamed

題 王 處 士 山 居

雲 木 沉 沉 夏 亦 寒
此 中 幽 隱 幾 經 年
無 多 別 業 供 王 稅
大 半 生 涯 在 釣 般
蜀 魄 叫 迴 芳 草 色
鷺 鶿 飛 破 夕 陽 煙
干 戈 蝟 起 能 高 臥
真 箇 逍 遙 是 謫 仙

李 咸 用

Đề Vương Xử Sĩ Sơn Cư 

Vân mộc trầm trầm hạ diệc hàn 
Thử trung u ẩn kỷ khinh niên 
Vô đa biệt nghiệp cung vuơng thuế 
Đại bán sinh nhai tại điếu thuyền 
Thục phách khiếu hồi phương thảo sắc 
Lộ tư phi phá tịch dương yên 
Can qua vị khởi năng cao ngoạ 
Chân cá tiêu dao thị trích tiên 
Lý Hàm Dụng

(viết về nơi ở ẩn trên núi của người họ Vưong)

(mây mù và cây cối âm u nên hè vẫn lạnh)
(người ở ẩn nơi u tịch này đã được vài năm rồi) 
(không có nghề gì nên khỏi đóng thuế vua)
(quá nửa đời sống là ở trên thuyền câu)
(chim cuốc gọi nhau trong đám cỏ thơm)
(vài cánh cò bay trong sương khói chiều tà)
(khắp nơi loạn lạc mà người vẫn nằm cao được)
(thật quả là 1 vị tiên bị đày tiêu dao nơi cõi tục)

Nơi Họ Vương Ỏ Ẩn

Giữa hè vẫn lạnh, cảnh âm u
Nhàn tản nơi đây đã mấy mùa
Thuế khóa lấy đâu mà đóng góp
Thuyền câu một mảnh giữa đong đưa
…..
Nghe hồn tiếng cuốc bên phương thảo
Cò soải trong sương giữa nắng tà
Thanh thản mặc mịt mờ binh lửa
Lưu đầy trần thế kiếp tiên xưa

SongNguyễn HànTú

unnamed

易 水 送 別 

此 地 別 燕 丹
壯 士 髮 衝 冠
惜 時 人 已 沒
今 日 水 猶 寒

駱 賓 王

Dịch Thủy Tống Biệt 
*
Thử địa biệt Yên Đan 
Tráng sĩ phát xung quan 
Tích thời nhân dĩ một 
Kim nhật thủy do hàn 

Lạc Tân Vương
Dich nghĩa:
(tiễn đưa bên sông Dịch)
(Thái tử Đan nước Yên từ biệt chỗ này)
(tóc tráng sĩ dựng phồng cả mũ lên)
(tiếc thương người xưa đã khuất)
(dòng nước cho đến hôm nay vẫn còn lạnh)

***
Ghi chú: Dịch Thuỷ là sông Dịch, nay ở huyện Dịch, tỉnh Hà Bắc.
Thời Chiến Quốc là gianh giới của nước Yên và nước Triệu.
Thái tử nước Yên tên là Đan, tổ chức ám sát Tần Thủy Hoàng để
tránh cho nước Yên khỏi bị nước Tần thôn tính. Sát thủ Kinh Kha
đóng vai sứ giả nước Yên sang Tần dâng bản đồ nước Yên và đầu
1 phản tướng của Tần. Ngày Kinh Kha lên đường, Thái tử Đan đưa
tiễn tới tận bờ sông Dịch .

***

Bên bờ sông Dịch
*
Chia tay Thái tử chốn này
Bừng bừng hào khí quyện bay ngất trời
Bao năm tráng sĩ đi rồi
Dòng sông nước vẫn cuốn trôi lạnh lùng
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

艷 女 詞 

露 井 棑 花 發
雙 雙 燕 並 飛
美 人 姿 態 裡
春 色 上 羅 衣
自 愛 頻 窺 鏡
時 羞 欲 掩 扉
不 知 行 路 客
遙 惹 五 香 歸

梁 鍠

Diễm Nữ Từ
*
Lộ tĩnh đào hoa phát 
Song song yến tịnh phi
Mỹ nhân tư thái lý
Xuân sắc thượng la y 
Tự ái tần khuy kính 
Thì tu dục yêm phi
Bất tri hành lộ khách
Dao nhạ ngũ hương quy
*
Lương Hoàng
Dich nghia:
(bài từ: cô gái xinh)
(bên giếng đượm sương đào nở hoa)
(đôi yến vẫn bay song song)
(trong dáng dấp của người đẹp)
(áo lụa làm nhan sắc tăng thêm)
(tự yêu nên cứ ngắm gương hoài)
(có lúc mắc cỡ muốn khép cửa sổ)
(đâu dè khách qua đường)
(vẫn thưởng thức được hương thơm từ xa)

****
Bài Từ Cô Gái Xinh

*

Bên giếng hoa đào nở
Đôi yến lượn la đà
Giai nhân dáng yểu điệu
Vẻ xuân vương áo lụa mượt mà
………
Yêu mình gương đối bóng
Thẹn thùng nép bên song
Đâu hay mùi phấn thoảng
Khiến khách qua dạo dực tơ lòng

*
SongNguyễn HànTú

unnamed

鳥 嗚 澗

人 閑 桂 花 落
夜 靜 春 山 空
月 出 驚 山 鳥
時 嗚 春 澗 中

王 維

Điểu Minh Giản 

Nhân nhàn quế hoa lạc 
Dạ tĩnh xuân sơn không 
Nguyệt xuất kinh sơn điểu 
Thời minh xuân giản trung 
Vương Duy

(Suối Chim Kêu)
(người thảnh thơi, hoa quế rụng rơi)
(đêm tĩnh mịch, núi xuân im ắng)
(trăng nhô lên cao làm chim rừng kinh sợ)
(lúc đó chúng kêu lên trong khe suối xuân)

Tiếng Chim Trong Khe

Vương vương hoa quế rụng đầy
Trời xuân tĩnh mịch, cỏ cây im lìm
Ánh trăng vừa mới nhú lên
Chim bay hoảng loạn vang miền suối Xuân

SongNguyễn HànTú

unnamed

悼 亡 姬鳳 杳 鸞 冥 不 可 尋
十 汌 仙 路 彩 雲 深
若 無 少 女 花 應 老
為 有 嫦 娥 月 易 沉
竹 葉 豈 能 銷 積 悵
丁 香 從 此 折 同 心
湘 江 水 闊 蒼 梧 遠
何 處 相 思 續 舜 琴韋 莊

Điệu Vong Cơ (thương tiếc người thiép vừa mất)

Phụng yểu loan minh bất khả tầm (phượng đã đi xa, loan nhạt nhòa, không thể tìm đâu nữa)
Thập châu tiên lộ thái vân thâm ([nàng đã lên] mười châu trên cõi tiên đầy mây màu rực rỡ)
Nhược vô thiếu nữ hoa ưng lão (nếu không có cô gái trẻ chắc hoa sẽ già đi)
Vị hữu Thường Nga nguyệt dị trầm (vì có Hằng Nga ở trển mà mặt trăng dẽ lặn)
Trúc diệp khởi năng tiêu tích trướng (rượu Trúc Diệp có thể làm tan mối sầu tích tụ hay sao?)
Đinh hương tòng thử chiết đồng tâm (từ đây giải đồng tâm màu đinh hương đã đứt)
Tương Giang thủy khoát Thương Ngô viễn (dòng Tương Giang thì rộng, núi Thương Ngô thì xa)
Hà xứ tương tư tục Thuấn cầm (biết gửi bản đàn tưởng nhớ vua Thuấn về đâu?)

Vi Trang

Ghi chú: Vua Thuấn (đời thượng cổ bên Tàu) mất ở núi Thương Ngô.
Hai bà hoàng hậu thương khóc mãi mà chết ỏ sông Tương

Thương Tiếc Người Thiếp

Phượng khuất bóng, loan mịt tăm chẳng thấy
Mười cõi tiên mây rực rỡ kéo đầy
Vắng bóng nàng, hoa chắc cũng buồn lây
Hằng xinh quá nên trăng hay chìm đắm
Dù Trúc Diệp chẳng làm tan buồn thảm
Giải đồng tâm đã hai ngả không cùng
Núi Thương xa, dòng Tương rộng mênh mông
Nỗi nhung nhớ sao nối đàn vua Thuấn

SongNguyễn HànTú

unnamed

渡 漢 江

嶺 外 音 書 絕
經 冬 復 立 春
近 鄉 情 更 怯
不 敢 問 來 人

李 頻

Độ Hán Giang 

Lĩnh ngoại âm thư tuyệt 
Kinh đông phục lập xuân 
Cận hương tình cánh khiếp 
Bất cảm vấn lai nhân 
Lý Tần

Dich nghĩa:
(qua sông Hán)
(ở núi không có tin tức gì bên ngoài)
(mùa đông đã qua, mùa xuân lại tới)
(càng tới gần quê lòng càng kinh hãi)
(không dám hỏi người qua đưòng)

Qua Sông Hán

*
Tin thư vắng bặt từ lâu
Đông vừa qua hết , tiết đầu lập xuân
Gần nhà lòng vẫn ngại ngần
Gặp người chẳng hỏi, phân vân không cùng

*
SongNguyễn HànTú


unnamed

渡 荊 門 送 別

渡 遠 荊 門 外
來 從 楚 國 遊
山 隨 平 野 盡
江 入 大 荒 流
月 下 飛 天 鏡
雲 生 結 海 樓
仍 憐 故 鄉 水
萬 里 送 行 舟

李 白

Độ Kinh Môn Tống Biệt 
*
Độ viễn Kinh Môn ngoại 
Lai tòng Sở quốc du 
Sơn tùy bình dã tận 
Giang nhập đại hoang lưu 
Nguyệt hạ phi thiên kính 
Vân sinh kết hải lâu 
Nhưng lân cố hương thủy 
Vạn lý tống hành chu 
Lý Bạch
*
(tiễn khách qua núi Kinh Môn) 

(qua khỏi núi Kinh Môn) 
(là dong chơi nước Sở)
(từ chân núi là bình nguyên)
(sông chảy vào miền hoang dã)
(trăng thấp như tấm kiếng trời đang bay)
(mây tụ lại như hình lâu đài trên biển)
(lòng vẫn thương dòng sông về quê cũ)
(nay tiễn khách lên thuyền đi muôn dặm)

Ghi chú: Kinh Môn là tên núi, nay ở huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc
Sở là tên nước cũ đời Xuân Thu, bao gồm nhiều tỉnh, trong đó có Hồ Bắc.
*
Phiêu Du

Bồng bềnh thuyền vượt cửa Kinh
Giáp vùng đồi núi đồng xanh ngút trời
Quanh co dòng nước êm trôi
Luân lưu vào chốn đất trời hoang vu
Trăng trôi tựa tấm gương mờ
Mây tầng kết bóng cảnh xưa lâu đài
Nhớ dòng sông nhỏ cuối trời
Vùng quê yêu dấu đưa người viễn phương

SongNguyễn HànTú

unnamed

渡 桑 乾

客 舍 并 汌 已 十 霜
歸 心 日 夜 憶 咸 陽
無 端 更 渡 桑 乾 水
卻 望 并 汌 是 故 鄉

賈 島

Độ Tang Càn 

Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương 
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương 
Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy 
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương 
Giả Đảo

(qua sông Tang Càn)
(ở trọ nơi Tinh Châu đã 10 năm)
(ngày đêm lúc nào lòng cũng muốn trở về Hàm Dương)
(tình cờ bây giờ lại đi trên sông Tang Càn này)
(ta vọng nhìn Tinh Châu như là quê cũ)

Ghi chú: Tang Càn là tên 1 con sông ở tỉnh Sơn Tây
Tinh Châu là tên đất cũng ở tỉnh Sơn Tây, có sông Tang Càn chảy qua
Hàm Dương là tên đất ở tỉnh Thiểm Tây

Qua sông Tang Càn

Mười năm trọ đất Tinh Châu
Nhớ Hàm Dương nặng nỗi sầu riêng mang
Chiều qua bến nước sông Tang
Nhìn Tinh Châu ngỡ xóm làng mình đây

SongNguyễn HànTú

unnamed

杜 少 府 之 任 蜀 川城 闕 輔 三 秦
風 煙 望 五 津
與 君 離 別 意
同 是 宦 游 人
海 內 存 知 己
天 涯 若 比 鄰
無 為 在 歧 路
兒 女 共 沾 巾王 勃

Đỗ Thiếu Phủ Chi Nhiệm Thục Xuyên 

Thành khuyết phụ Tam Tần 
Phong yên vọng Ngũ Tân 
Dữ quân ly biệt ý 
Đồng thị hoạn du nhân 
Hải nội tồn tri kỷ 
Thiên nhai nhược tị lân 
Vô vi tại kỳ lộ 
Nhi nữ cộng chiêm cân 
Vương Bột

(quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức)

(lệnh vua sai ta ra phụ giúp vùng Tam Tần)
(ta thấy sương khói từ vùng Ngũ Tân [ông sẽ tới])
(cùng ông ta có ý [muốn chào] ly biệt)
(vì cùng là quan chức đi nhậm nơi xa)
(trong đời đã là tri kỷ của nhau)
(thì dù có xa nhau cũng như sống bên nhau)
(tới ngã rẽ rồi, ta đừng làm như…)
(thói nhi nữ khóc ướt khăn)

Ghi chú: Thục Xuyên là tỉnh Tứ Xuyên , Tam Tần là tỉnh Thiễm Tây ngày nay
Ngũ Tân là vùng có 5 bến sông trong đất Thục Xuyên
Đỗ Thiếu Phủ Đi Nhậm Chức Tại Thục Xuyên

quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức

Đi Tam Tần
chấp lệnh vua
Ngũ Tân sương gió mịt mờ khói mây
Hai ta cảnh biệt ly này
Cùng đi nhậm chức tận nơi xa vời
Đã là tri kỷ trong đời
Dù xa trời biển như ngồi gần nhau
Nơi chia lối
Chớ thương đau
Đừng làm nhi nữ lệ sầu ướt khăn

SongNguyễn HànTú

unnamed

渡 湘 江

遲 日 園 林 悲 昔 遊
今 春 花 鳥 作 邊 愁
獨 憐 故 國 人 南 竄
不 似 湘 江 水 北 流

杜 審 言

Độ Tương Giang 

Trì nhật viên lâm bi tích du 
Kim xuân hoa điểu tác nhân sầu 
Độc lân cố quốc nhân nam thoán 
Bất tự Tương Giang thủy bắc lưu 

Đỗ Thẫm Ngôn
(qua sông Tương)
(cả ngày trong rừng thưa nhớ thương chuyến đi chơi ngày cũ)
(xuân năm nay cả hoa và chim cũng chẳng làm ta vui nơi biên ải)
(một mình thương xót người quê cũ lánh nạn phương nam)
(không giống như dòng Tương Giang nước chảy về phương bắc)

Ghi chú: Tương Giang là con sông ở tỉnh Hồ Nam, nước chảy vào hồ Động Đình ở phía bắc

Qua sông Tương

Quanh rừng luẩn quẩn nhớ người
Xuân biên cương chẳng làm vui được lòng
Phương Nam người phải long đong
Chảy về phương Bắc chỉ dòng Tương thôi

SongNguyễn HànTú

unnamed

獨 坐 敬 亭 山眾 鳥 高 飛 盡
孤 雲 獨 去 閑
相 看 兩 不 厭
只 有 敬 亭 山李 白

Độc Tọa Kính Đình Sơn 

Chúng điểu cao phi tận 
Cô vân độc khứ nhàn 
Tương khán lưỡng bất yếm 
Chỉ hữu Kính Đình Sơn 

Lý Bạch

(ngồi 1 mình ở núi Kính Đình)
(chim muông đã bay cao đi hết cả rồi)
(chỉ còn đám mây lẻ loi bay lờ lững)
(hai ta cùng ngắm nhau không chán)
(chỉ có núi Kính Đình [vói ta] mà thôi

Ghi chú: Kính Đình Sơn là ngọn núi ở huyện
Tuyên Thành tỉnh An Huy ngày nay

Ngồi một ình trên Kính Đình Sơn

Chim muông đã khuất cuối trời
Chỉ còn mây trắng lẻ loi lững lờ
Kính Đình một đỉnh chơ vơ
Chỉ ta và núi thẫn thờ như nhau

SongNguyễn HànTú

unnamed

對 酒 

勸 君 莫 拒 杯 
春 風 笑 人 來 
桃 李 如 舊 識 
傾 花 向 我 開 
流 鶯 啼 碧 樹 
明 月 窺 金 罍 
昨 來 朱 顏 子 
今 日 白 髮 催 
棘 生 石 虎 殿 
鹿 走 姑 蘇 臺 
自 古 帝 王 宅 
城 闕 閉 黃 埃 
君 若 不 飲 酒 
昔 人 安 在 哉 

李 白 

Đối tửu 

Khuyến quân mạc cự bôi 
Xuân phong tiếu nhân lai 
Đào lý như cựu thức 
Khuynh hoa hướng ngã khai 
Lưu oanh đề bích thụ 
Minh nguyệt khuy kim lôi 
Tạc lai châu nhan tử 
Kim nhật bạch phát thôi 
Cức sinh Thạch Hổ điện 
Lộc tẩu Cô Tô đài 
Tự cổ đế vương trạch 
Thành khuyết bế hoàng ai 
Quân nhược bất ẩm tửu 
Tích nhân an tại ai? 

Lý Bạch

(trước rượu)
(xin ông chớ từ chối chén rượu mời này)
(khi gió xuân đang chào đón người mới tới)
(cây đào và cây mận như người quen biết cũ)
(cứ hướng về ta mà nở hoa)
(chim oanh vừa chuyền vừa hót trên cây xanh)
(trăng sáng chiếu trên chén vàng)
(hôm qua mặt mũi còn hồng hào)
(cây gai dại mọc đầy ở điện Thạch Hổ)
(hươu nai chạy trong đài Cô Tô bỏ hoang)
(từ xưa tới nay những chỗ đế vương ở)
(thành quách phủ trong lớp bụi vàng)
(nếu ông không uống rượu)
(thì xin hỏi ông người xưa đang ở đâu?)

Ghi chú: Thạch Hổ điện là cung điện của vua Thạch Hổ nhà Hậu Triệu,
trước khi bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt. 
Cô Tô đài là đền đài của vua Phù Sai nước Ngô trước khi bị
vua nước Việt là Câu Tiễn thôn tính.

Trước Rượu

Chén rượu quý thì chẳng nên từ khước
Khi gió xuân còn lui tới cợt cười
Hãy nhìn kìa những đào mận xinh tươi
Như người cũ
Nghiêng về ta mà nở
Oanh ca hát trên cành xanh rực rỡ
Ánh trăng thanh rọi lóng lánh chén vàng
Mới ngày nào còn đầy nét hiên ngang
Giờ nhìn lại thì tóc râu đã bạc
Thạch Hổ điện mà cây gai còn mọc
Thành Cô Tô đám hươu chạy lăng xăng
Tự ngàn xưa nơi cung điện đế vương
Vẫn thường bị lớp bụi vàng đóng bẩn
Rượu không uống
Xin hỏi lời dớ dẩn
Những người xưa giờ đang ở nơi đâu?!

SongNguyễn HànTú

unnamed

對 雪

戰 哭 多 新 鬼
愁 吟 獨 老 翁
亂 雲 低 薄 暮
急 雪 舞 迴 風
瓢 棄 樽 無 綠
爐 存 火 似 紅
數 汌 消 息 斷
愁 坐 正 書 空

杜 甫

Đối Tuyết 

Chiến khốc đa tân quỷ 
Sầu ngâm độc lão ông 
Loạn vân đê bạc mộ 
Cấp tuyết vũ hoàn phong 
Biều khí tôn vô lục 
Lô tồn hỏa tự hồng 
Sổ châu tiêu tức đoạn 
Sầu tọa chính thư không 
Đỗ Phủ

(trước tuyết)

(nhìều hồn ma tử sĩ mới chết than khóc)
(chỉ một mình lão ông đây ngâm thơ buồn)
(trời về chiều, mây thấp trôi lộn xộn)
(tuyết bay nhanh như nhảy múa trong gió lốc)
(quăng bỏ bầu, chén không còn rượu [màu xanh])
(trong lò lửa vẫn còn đỏ)
(một vài châu mất tin tức)
(ngồi buồn viết thơ vào hư không)

Trước Tuyét

Hồn ma than khóc nỉ non
Gục đầu ông lão tiếng buồn ngân nga
Chiều về vần vũ mây sa
Lốc cuồng , gió rít mịt mờ tuyết bay
Quăng bầu, ly cạn, sầu đầy
Lò than nhen nhúm còn dây chút hồng
Tin nhiều miền bị địch công
Trong không nguệch ngoạc nỗi lòng sầu tư

SongNguyễn HànTú

unnamed

桐 柏 觀

東 南 一 境 清 心 目
有 此 千 峰 插 翠 微
人 在 下 方 衝 月 上
鶴 從 高 處 破 煙 飛
巖 深 水 落 寒 侵 骨
門 靜 花 開 色 照 衣
欲 識 蓬 萊 今 便 是
更 於 何 處 學 忘 機

周 朴

Đồng Bách Quán 

Đông nam nhất cảnh thanh tâm mục 
Hữu thử thiên phong sáp thúy vi 
Nhân tại hạ phương xung nguyệt thướng 
Hạc tòng cao xứ phá yên phi 
Nham thâm thủy lạc hàn xâm cốt 
Môn tĩnh hoa khai sắc chiếu y 
Dục thức Bồng Lai kim tiện thị 
Cánh ư là xứ học vong cơ 

Chu Phác

(nơi đạo sĩ cư trú Đồng Bách)

(phía đông nam có một cảnh làm ta sáng mắt sáng lòng)
(với cả ngàn ngọn núi phủ cây rừng xanh ngắt)
(người ở dưới leo lên như muốn tới mặt trăng)
(chim hạc ở trên đỉnh cao rẽ sương khói mà bay)
(hang sâu nước trút hơi lạnh thấu xưong)
(cửa hang yên tĩnh sắc hoa mới nở hắt trên y phục)
(ngày nay muốn biết cảnh Bồng Lai ra thế nào)
(thì đâu cần đi đâu nữa để tìm hiểu xứ thần tiên)

Ghi chú: Đồng Bách là di tích phía đông nam núi Thiên Thai
nay thuộc tỉnh Chiết Giang, là nơi xưa các đạo sĩ ẩn cư

Quán Đồng Bách

Thoả lòng mắt dõi cảnh đông nam
Ngàn vạn non xanh biếc ngút ngàn
Lối tận đỉnh trời dường hái nguyệt
Vút cao cánh hạc đuổi mây tan
—-
Thăm thẳm hang sâu lạnh thấu xương
Cửa vắng hoa khoe sắc ven đường
Ý hẳn Bồng Lai là đây nhỉ
Nào cần tìm kiếm tận viễn phương

SongNguyễn HànTú
unnamed

冬 景

天 時 人 事 日 相 崔
冬 至 陽 生 春 又 來
刺 繡 五 紋 添 弱 線
吹 葭 六 管 動 飛 灰
岸 容 待 臘 相 舒 柳
山 意 衝 寒 欲 放 梅
雲 物 不 殊 鄉 國 異
教 兒 且 覆 掌 中 杯

杜 甫

Đông Cảnh 

Thiên thời nhân sự nhật tương thôi 
Đông chí dương sinh xuân hựu lai 
Thích tú ngũ vân thiêm nhược tuyến 
Xuy hà lục quản động phi hôi 
Ngạn dung đãi lạp tương thư liễu 
Sơn ý xung hàn dục phóng mai 
Vân vật bất thù hương quốc dị 
Giáo nhi thả phúc chưởng trung bôi 

Đỗ Phủ

(cảnh mùa đông)

(vận trời và con người hàng ngày tác dụng vào nhau)
(mùa đông đến khi có nắng ấm là xuân trở lại)
([trời như] gấm thêu chỉ ngũ sắc thêm những sợi nhỏ)
([gió như] thổi 6 điệu sáo làm tung bay bụi tro cỏ hà)
(liễu trên bờ đợi tháng chạp ra trồi non)
(núi như đang tuôn khói lạnh cho mai nở)
(mây và cảnh vật như nhau nhưng quê cũ khác nhau)
(con trẻ đâu hãy rót rượu vào chén [cho ta])

Cảnh Mùa Đông

Việc người quyện sát vận trời
Hết mùa Đông lạnh tiết thời vào Xuân
Năm mầu mây đẹp vô ngần
Gió reo sáu khúc tung vân tro hà
Bên ven trồi liễu đợi chờ
Núi tuôn khí lạnh nhắc giờ đón mai
Cảnh cũng vậy, khác quê thôi
Con đâu lấy rượu châm bồi cho ta

SongNguyễn HànTú

unnamed

冬 夜 聞 蟲

蟲 聲 冬 思 苦 於 秋
不 解 愁 人 聞 亦 愁
我 是 老 人 聽 不 畏
少 年 莫 聽 白 君 頭

白 居 易

Đông Dạ Văn Trùng 

Tùng thanh đông tứ khổ ư thu 
Bất giải sầu nhân văn diệc sầu 
Ngã thị lão nhân thính bất úy 
Thiếu niên mặc thính bạc quân đầu 

Bạch Cư Dị

(đêm đông nghe côn trùng kêu)

(tiếng côn trùng mùa đông nghe não lòng hơn mùa thu)
(người không dễ buồn, nghe cũng phải buồn)
(ta già rồi nên không ngán nghe)
(tuổi trẻ không nên nghe, vì nghe sẽ bạc đầu)

Tiếng Côn Trùng Mùa Đông

Tiếng côn trùng giữa đêm đông rả rích
Rã rời hơn lá sào sạc mùa thu 
Dạ chẳng buồn nghe cũng phải thẫn thờ
Già còn đỡ,
Trẻ…
Đừng nghe…
Đầu bạc !

SongNguyễn HànTú

unnamed

同 閻 伯 均
宿 道 觀 有 述南 國 佳 人 去 不 回
雒 陽 才 子 更 須 媒
綺 琴 白 雪 無 情 棄
羅 幌 清 風 到 曉 開
冉 冉 修 篁 依 戶 牖
迢 迢 列 宿 映 樓 台
縱 令 奔 月 成 仙 去
且 作 行 雲 入 夢 來包 何

Đồng Diêm Bá Quân 
Túc Đạo Quán Hữu Thuật 

Nam quốc giai nhân khứ bất hồi 
Lạc Dương tài tử cánh tu môi 
Ỷ cầm “Bạch Tuyết” vô tình khí 
La hoảng thanh phong đáo hiểu khai 
Nhiễm nhiễm tu hoàng y hộ dũ 
Điều điều liệt tú ánh lâu đài 
Túng linh bôn nguyệt thành tiên khứ 
Thả tác hành vân nhập mộng lai 

Bao Hà

(cảm tác theo bài “Kể Lại Chuyện Nghỉ Đêm 
Tại Đạo Xá “ của Diêm Bá Quân)

(người đẹp phương Nam ra đi không trở lại)
(làm khách đa tình đất Lạc Dương phải nhờ mai mối)
(cây đàn đẹp thường tấu bài”Bạch Tuyết” nay bỏ hoang)
(màn lụa đến sáng vẫn chưa buông để gió mát lùa vào)
(khóm trúc bên song cửa thay đổi chậm chạp)
(các vì sao xa vời lấp lánh trên lâu đài)
(dù nàng đã thành tiên bay lên cung trăng rồi)
(cũng xin nàng biến thành đám mây trôi vào cõi mộng)

Kể Lại Chuyện Nghỉ Đêm 
Tại Đạo Xá của Diêm Bá Quân
*
Ôi mỹ nữ
Nàng đã đi không trở lại
Để khách tình đất Lạc nặng sầu vương
Đàn bơ vơ bỏ hoang phế lạnh lùng
Màn lụa mãi vén lên không người thả
Khóm trúc xanh vẫn vô tình bên cửa
Giữa bầu trời tinh tú chiếu lung linh
Người tiên ơi
Hãy trở lại cung đình
Cùng ta nhập mây vương du tình mộng

SongNguyễn HànTú

unnamed

東 陽 酒 家 贈 別

天 涯 方 歎 異 鄉 身
又 向 天 涯 別 故 人
明 日 五 更 孤 店 月
醉 醒 何 處 各 沾 巾

韋 莊

Đông Dương Tửu Gia Tặng Biệt 

Thiên nhai phương thán dị hương thân 
Hựu hướng thiên nhai biệt cố nhân 
Minh nhật ngũ canh cô điếm nguyệt 
Túy tinh hà xứ các chiêm cân 
Vi Trang

(viết tặng lúc ly biệt ở quán rượu Đông Dương) 

(vừa mới than nỗi xa quê ở phương trời này)
(nay lại phải đưa tiễn người bạn cố tri)
(đêm mai suốt 5 canh cô đơn nhìn trăng)
(dù say hay tỉnh thì ở đâu ta cũng lệ ướt khăn)

Viết Tặng Lúc Chia Tay

Nơi góc trời mới than thân lữ thứ
Giờ cuối đường lại từ biệt bạn xưa
Suốt năm canh nơi quán trọ thẫn thờ
Dù say, tình cũng khăn tay đẫm lệ

SongNguyễn HànTú

unnamed

洞 房

洞 房 環 珮 冷
玉 殿 起 秋 風
秦 地 應 新 月
龍 池 滿 舊 宮
繫 舟 今 夜 遠
清 漏 往 時 同
萬 里 黃 山 北
園 陵 白 露 中

杜 甫

Động Phòng 

Động phòng hoàn bội lãnh 
Ngọc điện khởi thu phong 
Tần địa ưng tân nguyệt 
Long trì mãn cựu cung 
Hệ chu kim dạ viễn 
Thanh lậu vãng thời đồng 
Vạn lý Hoàng sơn bắc 
Viên lăng bạch lộ trung 

Đỗ Phủ
(hang động)

(hang núi có đá [đẹp như] ngọc lạnh lẽo)
(gió thu thổi qua căn phòng [đẹp như] cung điện)
(trăng non đã lên cao ở đất Tần này)
(trong cung cũ có nhiều vũng nước)
(đêm nay ta buộc thuyền nơi xa vắng này) 
(nghe tiếng nước rơi như ngày cũ)
(núi Hoàng mờ mờ xa nơi phương trời bắc)
(mộ vua chìm trong màn sương trắng)

Hang động

Vách đá tỏa hơi lạnh tái tê
Thoảng qua động ngọc gió thu về
Trời Tần một mảnh trăng non nhú
Ánh tỏa ao hồ chốn cung mê
……..
Đêm nay thuyền buộc chốn xa xôi
Cũng nước rì rào điểm ngày trôi
Dõi bóng núi Hoàng muôn dặm Bắc
Lăng vua chùm phủ giữa sương rơi

SongNguyẽn HànTú

unnamed

銅 雀 臺

銅 臺 宮 觀 委 灰 塵
魏 主 園 林 漳 水 津
即 今 西 望 猶 堪 思
況 復 當 時 歌 舞 人

劉 庭 琦

Đồng Tước Đài 

Đồng Đài cung quán ủy hôi trần 
Ngụy chủ viên lâm Chương thủy tân 
Tức kim tây vọng do kham tứ 
Huống phục đương thời ca vũ nhân 

Lưu Đình Kỳ

(đền đài Đồng Tước)

(cung điện Đồng Tước nay phó mặc cho tro bụi)
(vườn rừng của vua Ngụy ở ven sông Chương)
(nay nhìn về mé tây vẫn khó mà nén cảm xúc)
(thì huống chi những vũ công thời đó)

Đài Đồng Tước

Đài Đồng bụi phủ ngập cung
Vườn lăng vua Ngụy như rừng ven sông
Hướng về Tây vẫn mủi lòng
Hỏi sao ca vũ nhân không ngậm ngùi

SongNguyễn HànTú
unnamed

與 諸 子 登 峴 山 

人 事 有 代 謝
往 來 成 古 今
江 山 留 勝 跡
我 輩 復 登 臨
水 落 魚 梁 淺
天 寒 夢 澤 深
羊 公 碑 尚 在
讀 罷 淚 沾 襟
孟 浩 然

Dữ Chư Tử Đăng Hiện Sơn 
***
Nhân sự hữu đại tạ
Vãng lai thành cổ kim
Giang sơn lưu thắng tích 
Ngã bối phúc đăng lâm 
Thủy lạc Lư Lương thiển 
Thiên hàn Mộng trạch thâm 
Dương Công bi thượng tại 
Độc bãi lệ chiêm cân. 

Mạnh Hạo Nhiên

***
Dịch nghĩa:
(lên núi Hiện Sơn cùng các con)
(việc đời luôn biến đổi)
(thời gian qua lại làm thành xưa và nay)
(nhưng sông núi còn lưu lại dấu tích đẹp)
(để chúng ta lại được lên thăm)
(nước rút xuống làm bãi Ngư Lương nông)
(trời lạnh lẽo đầm Mộng sâu)
(bia đá ghi chép về Ông Dương còn đây)
(làm ta đọc xong lệ rơi ướt khăn)

*
Ghi chú: núi Hiện Sơn, bãi Ngư Lương và đầm Vân Mộng nay
đều thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc
Dương Công: tức Dương Hỗ, người đời Tấn, làm quan trấn nhậm đất
Tương Dương được người dân đương thời yêu mến. Khi ông mất họ
lập bia ghi công đức trên núi Hiện 
****
Cùng Các Con Lên Núi Hiện
*
Việc đời nối tiếp đổi thay
Biết bao luân chuyển đời nay mới thành
Non sông đầy cảnh hữu tình
Để người thanh thản dạo quanh thư nhàn
Bãi Ngư Lương nước cạn dần
Tiết trời lành lạnh, Mộng đầm thâm sâu
Nhìn bia Dương Hỗ lòng đau
Xem xong mắt lệ dâng sầu xót xa
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

遊小洞庭 
湖上山頭別有湖
芰荷香氣占仙都
夜含星斗分乾象
曉映雲雷作畫圖
風動綠蘋天上浪
鳥棲寒照月中烏
若非靈物多靈跡
爭得長年冬不枯白居易Du Tiểu Động Đình
*
Hồ thượng sơn đầu biệt hữu hồ
Kỵ hà hương khí chiếm tiên đô
Dạ hàm tinh đẩu phân càn tượng
Hiểu ánh vân lôi tác họa đồ
Phong động lục tần thiên thượng lãng
Điểu thê hàn chiếu nguyệt trung ô
Nhược phi linh vật đa linh tích
Tranh đắc trường niên đông bất khô

Bạch Cư Dị
*
Dich nghĩa:
(du ngoạn hồ Động Đình nhỏ)
(đặc biệt trên đỉnh núi của hồ lớn có hồ nhỏ)
(hương thơm của củ ấu và sen tràn ngập cõi tiên)
(ban đêm thấy rõ từng chòm sao)
(sáng sớm mây và tia chớp đẹp như bức tranh)
(gió thổi trên cỏ tần xanh như sóng trên trời)
(bóng quạ in trên vầng trăng lạnh lẽo)
(bảo là hồ nhỏ không kỳ diệu, nhưng có cái kỳ diệu)
(có nước quanh năm, mùa đông cũng không cạn)
*
Ghi chú: Động Đình , tên hồ, thắng cảnh nổi tiếng, nay ở huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam

*****
Chơi Hồ Động Đình Nhỏ
*
Hồ con trên đỉnh núi cao
Mùi thơm sen ấu ngạt ngào cõi tiên
Thiên hà chia khoảng từng trên
Như tranh chớp vẽ giữa nền trời mây
Tần xanh tựa sóng gió lay
Chim trong sáng lạnh ngỡ bầy quạ trăng
Dấu linh thiêng vẫn rõ ràng
Quanh năm chẳng cạn, dù đông vẫn đầy
*
SongNguyễn HànTú

unnamed

遊子吟 

慈母手中線
遊子身上衣
臨行密密縫
意恐遲遲歸
誰言寸草心
報得三春暉

孟郊

Du Tử Ngâm

Từ mẫu thủ trung tuyến 
Du tử thân thượng y 
Lâm hành mật mật phùng 
Ý khủng trì trì quy 
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy 

Mạnh Giao
*
Dich nghia:
(khúc ngâm: Người con đi choi xa)

(sợi chỉ trong tay mẹ hiền)
(may áo con sẽ mặc đi chơi xa)
(mẹ khâu kỹ càng để con đi)
(vì lo ngại con sẽ về trễ)
(ai nói trái tim như cọng cỏ của con)
(tra đuợc ơn mẹ ấm áp như nắng xuân)

Con đi chơi ngâm khúc
*
Đường kim trên áo mẹ may
Cho con bớt lạnh những ngày ở xa
Chẳng màng buốt ngón tay già
Mẹ khâu thật kỹ ấm qua tháng dài
Lòng người cọng cỏ Mẹ ơi
Khôn đền ơn Mẹ như trời nắng Xuân

SongNguyễn HànTú
unnamed

堂 成

背 郭 堂 成 蔭 白 茅
緣 江 路 熟 俯 青 郊
榿 林 礙 日 吟 風 葉
籠 竹 和 煙 滴 露 梢
暫 止 飛 烏 將 數 子
頻 來 語 燕 定 新 巢
傍 人 錯 比 楊 雄 宅
懶 惰 無 心 作 解 嘲

杜 甫

Đường Thành 
Bối quách đường thành ấm bạch mao 
Duyên giang lộ thục phủ thanh giao 
Khải lâm ngại nhật ngâm phong diệp 
Lung trúc hòa yên trích lộ sao 
Tạm chỉ phi ô tương sổ tử 
Tần lai ngữ yến định tân sào 
Bàng nhân thác tỉ Dương Hùng trạch 
Lãn nọa vô tâm tác “Giải Trào” 

Đỗ Phủ

(cất nhà xong)

(nhà lợp cỏ tranh trắng, quay lưng về thành)
(con đường ven sông đi tới ngoại thành xanh tốt)
(rừng cây khải rợp nắng, lá reo trong gió)
(khóm trúc mờ trong khói, sương nhỏ giọt từ ngọn cây)
(chim quạ tạm dừng bay xa để nuôi bày con nhỏ)
(chim yến ríu rít bay đi bay về làm tổ mới)
(người gần bên lầm sánh với nhà của Dương Hùng)
(ta làm biếng và cũng không có ý viết bài “Giải Trào”)

Ghi chú: Dương Hùng là người đời Hán Ai Đế (khoảng năm 24 sau TC) thường đóng cửa ngồi trong nhà viết sách. Bị chế riễu, ông làm bài “Giải Trào” để phân trần)

— Bản dịch của SongNguyễn HànTú —

Cất nhà xong

Lưng hướng thành, một mái tranh mới lợp
Đường ven sông thảm cỏ mọc xanh tươi
Cây la đà,
lá đón gió reo vui
Sương sớm rớt, 
khói phủ mờ khóm trúc
Quạ ngừng bay cùng đàn con tá túc
Én tới lui làm tổ mới nơi đây
Người ví von họ Dương ẩn đất này
Ôi thây kệ, “Giải Trào” chi thêm mệt

SongNguyễn HànTú
***

— Bản dịch của NguyễnTâmHàn —

Nhà mới làm xong
*
Một mái tranh lưng đối hướng thành
Ven sông đường rợp cỏ tươi xanh
Rừng cây rậm lá khua trong gió
Ôm khói, sương rơi, trúc trĩu cành 
*
Cánh quạ nuôi con tạm ngừng bay
Yến liệng tới lui tổ mới xây
Chòm xóm ví von Dương Hùng trước
Nghe bỏ ngoài tai chả giãi bày
*
NguyễnTâmHàn

unnamed

賈 生

宣 室 求 賢 訪 逐 臣
賈 生 才 調 更 無 倫
可 憐 夜 半 虛 前 席
不 問 蒼 生 問 鬼 神

李 商 隱

Giả Sinh 

Tuyên thất cầu hiền phỏng trục thần 
Giả sinh tài điệu cánh vô luân 
Khả liên dạ bán hư tiền tịch 
Bất vấn thương sinh vấn quỷ thần 

Lý thương Ẩn

Giải nghĩa:
(chàng họ Giả)

(tại cung Tuyên, vua hỏi các bày tôi đã bị đày)
(chàng họ Giả có tài và phong cách không ai bằng)
(tiếc thay lúc nửa đêm được vua vời vào trước giường)
(vua không hỏi về dân tình mà hỏi chuyện quỷ thần)

Ghi chú: Giả sinh tức Giả Nghị, người đời Hán Văn Đế (khoảng năm 191 trước CN)
làm quan đến chức Bác sĩ lúc rất trẻ, bị các quan đại thần dèm pha, vua đày 
ra đất Trường Sa. Sau vua triệu về thăm hỏi (tả trong bài này) nhưng không 
dùng lại. Qua đời lúc mới 33 tuổi.

Chàng Họ Giả

Nơi Tuyên thất cầu hiền
Vua triệu dù đắc tội
Gã Giả sinh có tài năng vượt trội
Nhưng trước giường vua chỉ hỏi qua loa
Chẳng dân sinh, toàn chuyện nhảm quỉ ma

SongNguyễn HànTú


unnamed

江 州 採 白 蘋採 盡 汀 蘋 恨 別 離
鴛 鴦 鸂 色 總 雙 飛
月 明 南 浦 夢 初 斷
花 落 洞 庭 人 未 歸
天 遠 有 書 隨 驛 使
夜 長 無 燭 照 寒 機
年 來 泣 淚 知 多 少
重 疊 朱 痕 在 繡 衣徐 寅

Giang Châu Thái Bạch Tần 

Thái tận đinh tần hận biệt ly 
Uyên ương khê sắc tổng song phi 
Nguyệt minh Nam Phố mộng sơ đoạn 
Hoa lạc Động Đình nhân vị quy 
Thiên viễn hữu thư tùy dịch sứ 
Dạ trường vô chúc chiếu hàn ki 
Niên lai khấp lệ tri đa thiểu 
Trùng điệp châu ngân tại tú y 
Từ Dần

Dịch nghĩa
(ở Giang Châu hái rau tần trắng)

(hái hết rau tần mọc bên sông vì tủi sầu ly biệt)
(chim uyên ương và chim khê sắc luôn có đôi)
(trăng sáng nơi Nam Phố mộng vừa tàn)
(hoa rụng chốn Động Đình người chưa về)
(phương xa có thư về tùy người phu trạm)
(suốt đêm không ánh đèn soi khung cửi lạnh)
(cả năm nay đã khóc biết bao nước mắt)
(đầm đìa những ngấn lệ thấm trên áo thêu)
Từ Dần

Ghi chú: Uyên ương và khê sắc đều là các giống vịt ở bên Tàu, 

Hái Rau Tần Tại Giang Châu

Hái tần, bực nỗi chia ly
Nhìn chim liền cánh đi về có đôi
Giữa trăng Nam Phố mộng rơi
Động Đình hoa rụng, tình nơi ngàn trùng
Đợi thư xa, dạ não nùng
Đèn đêm chẳng tỏ đề khung cửi buồn
Giọt sầu năm tháng rơi tuôn
Bao lần áo đẫm nỗi buồn nhớ nhung

Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

江 漢

江 漢 思 歸 客
乾 坤 一 腐 儒
片 雲 天 共 遠
永 夜 月 同 孤
落 日 心 猶 壯
秋 風 病 欲 蘇
古 來 存 老 馬
不 必 取 長 途

杜 甫

Giang Hán 

Giang Hán tư quy khách 
Càn khôn nhất hủ nho 
Phiến vân thiên cộng viễn 
Vĩnh dạ nguyệt đồng cô 
Lạc nhật tâm do tráng 
Thu phong bệnh dục tô 
Cổ lai tồn lão mã 
Bất tất thủ trường đồ 

Đỗ Phủ

(chỗ sông Hán chảy vào Trường Giang)

(khách tới Giang Hán nhớ nhà)
(là một gã đồ gàn trong trời đất)
(với sợi mây trên trời xa cách)
(với trăng cùng cô đơn suốt đêm)
(nắng đã xế lòng vẫn còn hứng thú)
(bệnh nghe như bớt trong gió thu)
(từ xưa tới nay khi ngựa trở nên già)
(thì đâu cần phải đi đường thật dài)
***

Nơi Giang Hán

Vừa tới Hán Giang chạnh nhớ nhà
Gã nho gàn dở chính là ta
Với mây trôi nổi nơi xa thẳm
Cùng Cuội cô đơn đến nguyệt tà
Trời đã xế rồi chưa hết hứng
Gió Thu vửa tới bệnh dần qua
Ngựa già đâu mãi còn dai sức
Hà tất mơ mòng vượt dậm xa
*
Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú

unnamed

江 行 望 匡 廬

咫 尺 愁 風 雨
匡 廬 不 可 登
祗 疑 雲 霧 窟
猶 有 六 朝 僧

錢 起

Giang Hành Vọng Khuông Lư 

Chỉ xích sầu phong vũ 
Khuông Lư bất khả đăng 
Chỉ nghi vân vụ quật 
Do hữu Lục Triều tăng 

Tiền Khởi

(đi trên sông ngắm núi Khuông Lư)
(còn cách có gang tấc mà buồn vì mưa gió)
(nên không thể lên thăm núi Khuông Lư được)
(chỉ đoán rằng trong hang núi đầy mây mù)
(vẫn còn vị tăng đời Lục Triều)

***
Trên sông ngắm núi Khuông Lư

Thật gần, bực nỗi mưa sa
Chẳng leo lên được núi già Khuông Lư
Hẳn rằng sau đám mây mù
Trong hang còn ẩn tăng sư Lục Triều

SongNguyễn HànTú
*
Chỉ gang tấc, có xa nào
Mà giông gió lớn khôn vào Khuông Lư
Lối hang khuất đám sương mù
Hẳn còn đâu đó tăng sư Lục Triều
*
NguyễnTâmHàn
unnamed

江 樓 書 懷

獨 上 江 樓 思 悄 然
月 光 如 水 水 如 天
同 來 玩 月 人 何 在
風 景 依 稀 似 去 年

趙 嘏

Giang Lâu Thư Hoài 

Độc thướng giang lâu tứ tiẽu nhiên 
Nguyệt quang như thủy thủy như thiên 
Đồng lai ngoạn nguỵệt nhân hà tại 
Phong cảnh y hi tự khứ niên 
Triệu Hỗ

(viết nỗi nhớ nơi lầu bên sông)
(một mình lên lầu bên sông với tâm tư lặng lẽ)
(ánh trăng như màu nước, màu nước như màu trời)
(người cùng ta thưởng trăng bây giờ ở đâu?)
(phong cảnh vẫn như năm ngoái)

Nỗi nhớ nơi giang lầu

Bơ vơ giữa chốn giang lầu
Nước, trời vằng vặc một mầu dưới trăng
Năm qua cùng ngắm nguyệt vàng
Cảnh nay vẫn vậy, người phương trời nào

*
SongNguyễn HànTú
*
Giang lầu một bóng lẻ loi 
Nước trời lồng bóng, rạng ngời dưới trăng
Mới năm qua tắm nguyệt vàng
Cảnh còn, người đã đôi đàng cách xa 
*
NguyễnTâmHàn

unnamed

江 樓 書 懷

獨 上 江 樓 思 悄 然
月 光 如 水 水 如 天
同 來 玩 月 人 何 在
風 景 依 稀 似 去 年

趙 嘏

Giang Lâu Thư Hoài 

Độc thướng giang lâu tứ tiẽu nhiên 
Nguyệt quang như thủy thủy như thiên 
Đồng lai ngoạn nguỵệt nhân hà tại 
Phong cảnh y hi tự khứ niên 
Triệu Hỗ

(viết nỗi nhớ nơi lầu bên sông)
(một mình lên lầu bên sông với tâm tư lặng lẽ)
(ánh trăng như màu nước, màu nước như màu trời)
(người cùng ta thưởng trăng bây giờ ở đâu?)
(phong cảnh vẫn như năm ngoái)

Nỗi nhớ nơi giang lầu

Bơ vơ giữa chốn giang lầu
Nước, trời vằng vặc một mầu dưới trăng
Năm qua cùng ngắm nguyệt vàng
Cảnh nay vẫn vậy, người phương trời nào

*
SongNguyễn HànTú
*
Giang lầu một bóng lẻ loi 
Nước trời lồng bóng, rạng ngời dưới trăng
Mới năm qua tắm nguyệt vàng
Cảnh còn, người đã đôi đàng cách xa 
*
NguyễnTâmHàn

unnamed

江 梅

梅 蕊 臘 前 破
梅 花 年 後 多
絕 知 春 意 好
最 奈 客 愁 何
雪 樹 元 同 色
江 風 亦 自 波
故 園 不 可 見
巫 岫 鬱 嵯 峨

杜 甫

Giang Mai 

Mai nhụy lạp tiền phá 
Mai hoa niên hậu đa 
Tuyệt tri xuân ý hảo 
Tối nại khách sầu hà 
Tuyết thụ nguyên đồng sắc 
Giang phong diệc tự ba 
Cố viên bất khả kiến 
Vu tụ uất tha nga 
Đỗ Phủ

(cây mai ở ven sông)

(cây mai hé nhụy trước tháng chạp)
(ra giêng thì nở nhiều hoa)
(ý xuân đã rõ ràng là tốt)
(nhưng khách vẫn buồn thì làm sao?)
(tuyết và cây vốn cùng một màu)
(gió làm sông nổi sóng)
(vườn nhà cũ không thể thấy được)
(vì núi Vu cao chót vót và cây cối um tùm)

Mai Ven Sông

Mai chúm chím vào ngày tháng chạp
Vừa xuân sang tiết hạp nở đầy
Ý tình xuân đẹp đã hay
Nhưng làm sao biết ai đây nhuốm sầu
Cây với tuyết một mầu trắng xóa
Gió lên, sông sóng cả mịt mùng
Vườn quê xa cách muôn trùng
Rườm rà cây núi Vu trông mịt mờ

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 南 逢 李 龜 年

岐 王 宅 裏 尋 常 見
崔 九 堂 前 幾 度 聞
正 是 江 南 好 風 景
落 花 時 節 又 逢 君

杜 甫

Giang Nam Phùng Lý Quy Niên 

Kỳ Vương trạch lý tầm thường kiến 
Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn 
Chính tại Giang Nam hảo phong cảnh 
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân 

Đỗ Phủ
(gặp Lý Quy Niên tại Giang Nam)

(thường tìm gặp ông ở dinh Kỳ Vương)
(vài dịp được nghe ông hát trước nhà Thôi Cửu)
(nay ở xứ Giang Nam phong cảnh đẹp này)
(lại được gặp ông trong tiết trời hoa rụng)

Gặp Lý Quy Niên Tại Giang Nam

Vẫn thường gặp tại dinh Kỳ
Trước nhà Thôi Cửu đã nghe giọng vàng
Giờ trong cảnh đẹp Giang Nam
Lại nghe người hát giữa ngàn hoa rơi

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 南 春

十 里 鶯 啼 綠 映 紅
水 村 山 郭 酒 旗 風
南 朝 西 百 八 十 寺
多 少 樓 臺 煙 雨 中

杜 牧

Giang Nam Xuân 

Thập lý oanh đề lục ánh hồng 
Thủy thôn sơn quách tửu kỳ phong 
Nam Triều tứ bách bát thập tự 
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung 
Đỗ Mục

(Giang Nam trong mùa xuân)

(mười dặm đường chim oanh hót, lá xanh chen hoa đỏ)
(xóm bên sông, quách trên núi, gió thổi cờ quán rượu)
(thời Nam Triều có 480 chùa)
(nhiều ít lâu đài trong khói mưa )
*
Mùa Xuân Giang Nam

Xanh pha hồng, mười dặm đường oanh hót
Xóm chân thành, quán rượu bóng cờ bay
Thủa Nam Triều chùa khắp chốn nước này
Giờ thành quách lầu đài mưa khói phủ

SongNguyễn HànTú

Dặm dài chim hót lá đỏ xanh
Phất phới cờ bay quán chân thành
Một thuở Nam Triều chùa khắp nẻo
Lầu đài lác đác khói vây quanh
*
NguyễnTâmHàn
unnamed

江 南 春 暮 寄 家

洛 陽 城 見 梅 迎 雪
魚 口 橋 逢 雪 送 梅
劍 水 寺 前 芳 草 合
鏡 湖 亭 上 野 花 開
江 鴻 斷 續 翻 雲 去
海 燕 差 池 拂 水 迴
料 得 心 知 寒 食 近
潛 聽 喜 鵲 望 歸 來

李 紳

Giang Nam Xuân Mộ Ký Gia 

Lạc Dương thành kiến mai nghênh tuyết 
Ngư Khẩu kiều phùng tuyết tống mai 
Kiếm Thủy tự tiền phương thảo hợp 
Kính Hồ đình thượng dã hoa khai 
Giang hống đoạn tục phiên vân khứ 
Hải yến si trì phất thủy hồi 
Liệu đắc tâm tri Hàn Thực cận 
Trầm thinh hỉ thước vọng quy lai 

Lý Thân 

(chiều xuân ở Giang Nam viết gửi về nhà)

(ở Lạc Dương thấy hoa mai chào đón tuyết)
(nhưng ở cầu Ngư Khẩu này thì tuyết tiễn hoa mai)
(cỏ thơm mọc nhiều trước chùa Kiếm Thủy)
(hoa đồng nội nở rộ trong đình Kính Hồ)
(chim hồng trên sông lác đác rẽ mây bay đi)
(chim nhạn biển bay chạm nước trở về)
(lòng đã biết tiết Hàn Thực sắp tới)
(thầm nghe chim thước báo tin vui người xa về)
*

Chiều Xuân Tại Giang Nam Gởi Về Nhà

Lạc Dương mai đón tuyết sang
Cầu Ngư tuyết tiễn mai vàng về xuôi
Cỏ chùa Kiếm Thủy xanh tươi
Kính Hồ rực rỡ khắp nơi hoa đồng
Rẽ mây lác đác chim hồng
Én chao tung nước trên sông trở về
Tiết Hàn Thực đã cận kề
Thầm nghe chim báo người đi tương phùng

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 村

清 江 一 曲 抱 村 流
長 夏 江 村 事 事 幽
自 去 自 來 堂 上 燕
相 親 相 近 水 中 鷗
老 妻 畫 紙 為 棋 局
稚 子 敲 針 作 釣 鉤
多 病 所 須 唯 藥 物
微 軀 此 外 更 何 求

杜 甫

Giang Thôn 

Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu 
Trường hạ giang thôn sự sự u 
Tự khứ tự lai đường thượng yến 
Tương thân tương cận thủy trung âu 
Lão thê họa chỉ vi kỳ cục 
Trĩ tử khao châm tác điếu câu 
Đa bệnh sở tu duy dược vật 
Vi khu thử ngoại cánh hà cầu 
Đỗ Phủ

(xóm bên sông)

(một đoạn sông nước trong chảy quanh xóm)
(mùa hè dài, mọi sự trong xóm đều lặng lẽ)
(chim én vẫn bay tới bay lui trên nóc nhà)
(chim âu trên sông vẫn gần gũi với người)
(vợ già vẽ bàn cờ trên giấy)
(con trẻ uốn kim làm lưỡi câu cá)
(bệnh nhiều cần có thuốc)
(ngoài thuốc ra, thân còm này chẳng cần gì khác)

Xóm Bên Sông

Dòng sông uốn khúc lượn quanh 
Ngày dài thôn xóm vắng tanh mùa Hè
Mái nhà én đã tụ về
Quen người âu vẫn cận kề bến sông
Bàn cờ vợ đã vẽ xong
Dùng kim con uốn thành vòng lưỡi câu
Chỉ mong chút thuốc trợ đau
Ốm o, già bệnh nào cầu thêm chi

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 村 即 事

罷 釣 歸 來 不 繫 船
江 村 日 落 正 堪 眠
縱 然 一 夜 風 吹 去
只 在 蘆 花 淺 水 邊

司 空 曙

Giang Thôn Tức Sự
Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền 
Giang thôn nhật lạc chính kham miên 
Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ 
Chỉ tại lô hoa thiển thủy biên 
Tư Không Thự

(việc xóm ven sông)

(câu xong trở về không buộc thuyền)
(xóm làng đã tối mà buồn ngủ quá)
(rủi ban đêm gió có thổi đi)
(thì cũng tấp vào bờ lau cạn)

Việc Xóm Bên Sông

Câu xong trở lại thuyền không buộc
Nhướng mắt chẳng lên, xóm tối rồi
Dù đêm mưa gió thuyền trôi dạt
Cũng tấp bờ lau bãi cạn thôi

SongNguyễn HànTú

Câu về chẳng kịp buộc thuyền
Mắt đờ sụp xuống xóm đêm tối rồi
Dù cho gió thổi thuyền trôi
Tấp vào bãi cạn quanh thôi ngại gì
*
NguyễnTâmHàn

unnamed

江 上 吟

木 蘭 之 枻 沙 棠 舟
玉 簫 金 管 坐 兩 頭
美 酒 尊 中 置 千 斛
載 妓 隨 波 任 去 流
仙 人 有 待 乘 黃 鶴
海 客 無 心 隨 白 鷗
屈 平 詞 賦 懸 日 月
楚 王 臺 榭 空 山 邱
興 酣 落 筆 搖 五 岳
詩 成 笑 傲 凌 滄 洲
功 名 富 貴 若 長 在
漢 水 亦 應 西 北 流

李白

Giang Thượng Ngâm 

Mộc lan chi duệ sa đường châu 
Ngọc tiêu kim quản tọa lưỡng đầu 
Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc 
Tái kỹ tùy ba nhiệm khứ lưu 
Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc 
Hải khách vô tâm tùy bạch âu 
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt 
Sở Vương đài tạ không sơn khâu 
Hứng hàm lạc bút dao Ngũ Nhạc 
Thi thành tiếu ngạo lãng Thương Châu 
Công danh phú quý nhược trường tại 
Hán Thủy diệc ưng tây bắc lưu 

Lý Bạch
(khúc ngâm trên sông)

(lái làm bằng gỗ mộc lan, thuyền bằng gỗ sa đường)
hai đầu thuyền có ống tiêu ngọc và ống sáo vàng)
(trong chén chứa ngàn hộc rượu ngon)
(chở ca kỹ theo sóng muốn đi đâu thì đi)
(người tiên chờ cưỡi chim hạc vàng )
(người ở biển thờ ơ nhìn chim âu)
(văn và phú của Khuất Bình treo mãi với trời trăng)
(đền đài của Sở Vương nay là núi trống không)
(khi say có hứng múa bút rung chuyển cả Ngũ Nhạc)
(thơ viết xong cười ngạo nghễ với Thương Châu)
(nếu công danh phú quý mà được dài lâu)
(thì sông Hán Thủy chắc phải chảy hưóng tây bắc)

Khúc Ngâm Trên Sông

Mộc lan tay lái
Thuyền gỗ sa đường
Hai đầu sáo ngọc tiêu vàng
Rượu ngon ngàn hộc nào màng gì hơn
Bềnh bồng mặt nước
Thuyền mặc sóng vờn
Mỹ nhân tha thướt trong khoang
Lửng lơ một cõi hạc vàng tung bay
Người khách biển theo loài chim trắng
Lời Khuất Bình còn vẳng đâu đây
Ai hay lầu Sở giờ này
Một gò quạnh quẽ tháng ngày nắng mưa
Đượm nồng men rượu
Dào dạt lời thơ
Cười vang át sông hồ
Oang oang tiếng hát…ngẩn ngơ núi rừng
Nếu công danh mãi chẳng ngừng
Dòng sông Hán Thủy vượt dòng bắc tây

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 上 值 水 如 海 勢 聊 短 述

為 人 性 僻 耽 佳 句
語 不 驚 人 死 不 休
老 去 詩 篇 渾 漫 與
春 來 花 鳥 莫 深 愁
新 添 水 檻 供 垂 釣
故 著 浮 槎 替 入 舟
焉 得 思 如 陶 謝 手
令 渠 述 作 與 同 遊

杜 甫

Giang Thượng Trị Thuỷ Như 
Hải Thế Liêu Đoản Thuật 

Vi nhân tính tích đam giai cú 
Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu 
Lão khứ thi thiên hồn mạn dữ 
Xiuân lai hoa điểu mạc thâm sầu 
Tân thiêm thủy hạm cung thùy điếu 
Cổ trước phù tra thế nhập châu 
Yên đắc tứ như Đào Tạ thủ 
Lệnh cừ thuật tác dữ đồng du 
Đỗ Phủ

(kể sơ qua lúc mặt sông
nước lên như mặt biển)

(ta là người tính tình kỳ quái thích câu thơ hay)
(nếu lời thơ chưa kinh động thì chết chưa chịu)
(đến tuồi già các bài thơ mang tâm hồn phóng túng)
(xuân tới hoa và chim không còn làm buồn nhiều)
(hiên bên sông vừa cất thêm để ngồi câu cá)
(do đó đã dùng bè nổi thay cho thuyền)
(ước chi có được ý thơ như họ Đào, họ Tạ)
(và cùng họ trò chuyện, làm thơ, du ngoạn lắm thay!)

Ghi chú: Đào Tạ tức Đào Uyên Minh đời Tấn (thế kỷ III) và Tạ Linh Vận 
đời Lục Triều (thế kỷ V) đều là các nhà thơ phái tự nhiên. Đỗ Phũ thế kỷ VIII.

Sơ Lược Cảnh Sông Lúc Nước Dâng Cao

Tính cổ quái yêu câu thơ thoát tục
Thơ chưa hay đến chết vẫn chưa yên
Tuổi xế chiều lời thơ thoát tự nhiên
Mùa xuân đến hoa, chim thôi kích động
Mới đóng được mái hiên sau khá rộng
Ngồi buông câu hay bè thả thay thuyền
Mơ áng thơ giống Đào, Tạ tự nhiên
Kết vần đẹp, cùng ngao du sơn thủy

SongNguyễn HànTú

unnamed

江 雪

千 山 鳥 飛 絕
萬 徑 人 蹤 滅
孤 舟 簑 笠 翁
獨 釣 寒 江 雪

柳 宗 元

Giang Tuyết 

Thiên sơn điểu phi tuyệt 
Vạn kính nhân tung diệt 
Cô chu thoa lạp ông 
Độc điếu hàn giang tuyết 

Liễu Tông Nguyên

(tuyết trên sông)

(trên ngàn núi chim đã bay đi hết)
(trên vạn lối đi dấu chân đã bị che hết)
(một ông lão mặc áo tới, đội nón lá ngồi trên thuyền lẻ loi)
(một mình ngồi câu trên con sông tuyết lạnh)

Tuyết Trên Sông

Chim ngàn rời núi bay đi
Trên đường khắp nẻo chẳng ghi dấu người
Trên sông thuyền chiếc lẻ loi
Tuyết rơi, áo lá, lão ngồi thả câu

SongNguyễn HànTú

unnamed

下 終 南 山 過 紏 斯
山 人 宿 置 酒 暮 從 碧 山 下 
山 月 隨 人 歸 
卻 顧 所 來 徑 
蒼 蒼 橫 翠 微 
相 攜 及 田 家 
童 稚 開 荊 扉 
綠 竹 入 幽 徑 
青 蘿 拂 行 衣 
歡 言 得 所 憩 
美 酒 聊 共 揮 
長 歌 吟 松 風 
曲 盡 河 星 稀 
我 醉 君 復 樂 
陶 然 共 忘 機 李 白 

Hạ Chung Nam Sơn Quá Hộc Tư 
Sơn Nhân Túc Trí Tửu 

Mộ tòng bích sơn hạ 
Sơn nguyệt tùy nhân quy 
Khước cố sở lai kính 
Thương thương hoành thúy vi 
Tương huề cập điền gia 
Đồng trĩ khai kinh phi 
Lục trúc nhập u kính 
Thanh la phất hành y 
Hoan ngôn đắc sở khế 
Mỹ tửu liêu cộng huy 
Trường ca ngâm “Tùng Phong” 
Khúc tận hà tinh hi 
Ngã túy quân phục lạc 
Đào nhiên cộng vong cơ 

Lý Bạch

(xuống sườn núi Chung Nam, ghé nhà
người dân bản địa là Hộc Tư uống rượu)

(buổi chiều ta đi xuống sườn núi xanh)
(bóng trăng miền núi như theo người cùng về)
(trông lại con đường đã đi)
(chỉ thấy đường nằm ngang xanh xanh nhỏ xíu)
(nắm tay mừng chủ nhà làm ruộng)
(đám trẻ nhỏ mở cổng làm bằng cây gai)
(ta đi vào một con đường có bóng tre xanh mát rượi)
(những đọt cây leo đong đưa chạm cả vào áo khách)
(vui mừng nói đã có chỗ nghĩ ngơi)
(cùng nhau nâng chén rượu ngon)
(ca ngâm bài “Tùng Phong” dài)
(hết bài thì sao trên ngân hà chỉ còn lác đác)
(ta đã say, ông cũng vui)
(vui quá ai cũng quên hết mọi toan tính)

Lý Bạch

Ghé Bạn Uống Rượu

Trời chạng vạng bước lần theo đường núi
Ánh trăng lan giõi theo bước người đi
Quay lại nhìn … ơ hay nhỉ chút gì 
Như sương phủ mờ dần vùng núi biếc
Theo chân bạn tạm quên đời đơn chiếc
Đến trước nhà nghe bọn trẻ chào thưa
Qua cổng gai lối tre tối lờ mờ
Lá mơn trớn ghé vai người ngả ngớn
Tạ tri kỷ vui đêm nay cho trọn
Nào nâng ly cùng thưởng thức men nồng
Hứng men cay ngâm ca khúc “Tùng Phong”
Bài ca dứt sao sông Ngân thưa thớt
Tuyệt diệu nhỉ thấm hơi men ngây ngất
Ta vui say cùng quên cả việc đời

SongNguyễn HànTú

unnamed

下 江 陵

朝 辭 白 帝 彩 雲 間
千 里 江 陵 一 日 還
兩 岸 猿 聲 啼 不 住
輕 舟 已 過 萬 重 山

李 白

Hạ Giang Lăng 

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian 
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn 
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ 
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn 

Lý Bạch
(xuôi Giang Lăng)

(buổi sáng rời thành bạch Đế lúc có mây rực rỡ)
(Giang Lăng xa ngàn dặm di một ngày tới)
(hai bên bờ vượn hú không lúc nào nguôi)
(chìếc thuyền nhẹ đã vượt cả vạn núi)

Ghi chú : Giang Lăng, tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc
Bạch Đế thành, di tích thời Tam Quốc, Lưu Bị đem đại quân phạt Ngô,
bị thất trận chạy về chết ở đây; nay thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên.
Hồ Bắc và Tứ Xuyên giáp ranh nhau, có sông Trường Giang chảy qua cả hai.

Trở Lại Giang Lăng

Bạch thành một sớm mây giăng
Ngàn xa về tới Giang Lăng một ngày
Bên bờ vượn hú không ngơi
Con thuyền nhẹ lướt núi đồi vượt nhanh

SongNguyễn HànTú

unnamed

何 滿 子

故 國 三 千 里
深 宮 二 十 年
一 聲 何 滿 子
雙 淚 落 君 前

張 祐

Hà Mãn Tử 

Cố quốc tam thiên lý 
Thâm cung nhị thập niên 
Nhất thanh “Hà Mãn Tử” 
Song lệ lạc quân tiền 

Trương Hựu
(khúc hát “Hà Mãn Tử”)

(quê cũ cách xa ba ngàn dặm)
(ở trong cung cấm đã hai chục năm)
(nghe thấy một câu trong bài “Hà Mãn Tử”)
(hai hàng lệ đã rơi trước mặt ông)

Ghi chú : “Hà Mãn Tử” là tên một khúc hát nổi tiếng trong thời Đường Minh Hoàng. 
Do một ca kỹ bị tội tử hình làm ra đễ xin tha mạng, nhưng không thành công. 

Hà Mãn Tử

Quê hương cách ngàn trùng
Hai mươi năm thâm cung
Vẳng lời “Hà Mãn Tử”
Trước người lệ tuôn dòng

SongNguyễn HànTú

unnamed

邯 鄲 冬 至 夜 思 家

邯 鄲 驛 裏 逢 冬 至
抱 膝 燈 前 影 伴 身
想 得 家 中 深 夜 坐
還 應 說 著 遠 行 人

白 居 易

Hàm Đan Đông Chí Dạ Tư Gia 

Hàm Đan dịch lý phùng đông chí 
Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân 
Tưởng đắc gia trung thâm dạ tọa 
Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân 

Bạch Cư Dị

(đêm đông chí ghé Hàn Đan nhớ nhà)

(ghé trạm xá ở Hàm Đan nhằm tiết đông chí)
(ngồi bó gối trước ngọn đèn lấy bóng mình làm bạn)
(cả đêm nhớ về gia đình)
(có lẽ cũng đang nhắc nhở tới người đi xa)

Đêm Đông Chí Ở Hàm Đan Nhớ Nhà

Tiết đông chí nơi Hàm Đan nhà trọ
Trước đèn ngồi ôm gối bóng cô đơn
Chắc cả nhà giờ đây cũng đang buồn
Quây quần nhớ người đi xa quạnh quẽ

SongNguyễn HànTú

unnamed

咸 陽 懷 古

經 過 此 地 無 窮 事
一 望 深 秋 感 廢 興
渭 水 故 都 秦 二 世
咸 陽 衰 草 漢 諸 陵
天 空 絕 塞 聞 邊 雁
葉 盡 孤 村 見 水 燈
風 景 蒼 蒼 多 少 恨
寒 山 高 出 白 雲 層

劉 滄

Hàm Dương Hoài Cổ 

Kinh qua thử địa vô cùng sự 
Nhất vọng thâm thu cảm phế hưng 
Vị Thủy cố đô Tần nhị thế 
Hàm Dương suy thảo Hán chư lăng 
Thiên không tuyệt tái văn thu nhạn 
Diệp tận cô thôn kiến thủy đăng 
Phong cảnh thương thương đa thiểu hận 
Hàn sơn cao xuất bạch vân tằng 
Lưu Thương

(nhớ chuyện xưa ở Hàm Dương)

(những chuyện đã xảy ra ở đất này nhiều vô cùng)
(cuối thu ngắm cảnh mà thương cảm nỗi phế hưng)
(là cố đô của hai triều đại nhà Tần ở bên sông Vị Thủy)
(nay Hàm Dương đầy cỏ úa và các lăng vua Hán)
(nơi cửa ải xa nhất, chỉ nghe thu nhạn ríu rít)
(cây cối trụi lá, có ánh đèn nơi xóm chài lẻ loi)
(phong cảnh xanh lam làm lòng ít nhiều buồn bã)
(mây trắng vừa ra khỏi đỉnh núi cao lạnh lẽo)

Ghi chú: Hàm Dương là cố đô của 2 trìều đại nhà Tần (nhà Tần thời Chiến Quốc
và nhà Tần sau khi thống nhất Trung Quốc), bên bờ sông Vị Thủy,
nay thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.

Nhớ chuyện cũ Hàm Dương

Thương cảnh cũ đã bao lần dâu biển
Tiếng thu buồn như xót cuộc đổi thay
Dòng Vị kia
Kinh đô cũ còn đây
Hàm Dương đó
Cỏ úa lăng vua Hán
Trời tĩnh lặng nghe ải xa tiếng nhạn
Cây trơ cành, đèn le lói bên sông
Cảnh đìu hiu, nhìn se sắt, mủi lòng
Vầng mây trắng vừa bay qua đỉnh núi 

SongNguyễn HànTú
unnamed

江 南 曲

嫁 得 瞿 唐 賈
朝 朝 誤 妾 期
早 知 潮 有 信
嫁 與 弄 潮 兒

李 益

Giang Nam Khúc 

Giá đắc Cù Đường cổ 
Triêu triêu ngộ thiếp kỳ 
Tảo tri triều hữu tín 
Giá dữ lộng triều nhi 

Lý Ich

(ca khúc Giang Nam)

(làm vợ anh chàng lái buôn ở Cù Đường)
(sáng nào cũng lỡ hẹn với thiếp)
(nếu sớm biết thủy triều đúng giờ giấc)
(thiếp thà lấy chàng nào thích dỡn thủy triều)

Khúc Giang Nam

Đem thân gả gã lái buôn
Chả thương tiếc ngọc lại luôn hẹn liều
Sớm hay biết xuống lên đều
Chẳng thà lấy béng Thủy triều còn hơn

SongNguyễn HànTú
unnamed

咸 陽 城 西 門 晚 眺獨 上 高 城 萬 里 愁
蒹 荷 楊 柳 似 汀 洲
溪 雲 初 起 日 沈 閣
山 雨 欲 來 風 滿 樓
鳥 下 綠 蕪 秦 茆 夕
蟬 嗚 黃 葉 漢 宮 秋
行 人 莫 問 前 朝 事
渭 水 寒 聲 晝 夜 流許 渾

Hàm Dương Thành Tây Môn Vãn Thiếu 

Độc thướng cao thành vạn lý sầu 
Kiêm hà dương liễu tự đinh châu 
Khê vân sơ khởi nhật trầm các 
Sơn vũ dục lai phong mãn lầu 
Điểu há lục vô Tần uyển tịch 
Thuyền minh hoàng diệp Hán cung thu 
Hành nhân mạc vấn triều tiền sự 
Vị thủy hàn thanh trú dạ lưu 

Hứa Hồn

(ngắm cảnh cửa Tây thành Hàm Dương buổi chiều)
(một mình leo lên thành cao mà lòng buồn rười rượi)
(lau sậy và dương liễu giống như ở các bãi sông thấp)
(mây vừa bay lên từ khe suối, mặt trời lặn sau gác cao)
(mưa núi sắp đổ, gió thổi khắp lầu)
(buổi chiều chim đáp xuống bãi cỏ trong vườn nhà Tần )
(ve sầu kêu trong lá vàng cung Hán mùa thu)
(khách du xin đừng hỏi việc của các triều đại trước)
(tiếng nước sông Vị vẫn ngày đêm lạnh lùng chảy)

Cảnh Chiều Cửa Tây Thành Hàm Dương

Trên thành cao mang mối sầu vạn dặm
Hàng kiêm hà, liễu trải tận ven sông
Sau mái lầu vừng dương trốn thẹn thùng
Mây giăng mắc
Trời chuyển mưa
Gió lộng…
Chim ríu rít trong vườn Tần…chiều xuống
Ve ngậm ngùi…
Cung Hán lá thu rơi
Hỏi làm chi chuyện triều trước …qua rồi
Nước sông Vị vẫn xuôi dòng lạnh lẽo

SongNguyễn HànTú
unnamed

寒 食

春 城 無 處 不 飛 花
寒 食 東 風 御 柳 斜
日 暮 漢 宮 傅 臘 燭
輕 煙 散 入 五 侯 家

韓 翃

Hàn Thực 

Xuân thành vô xứ bất phi hoa 
Hàn Thực đông phong ngự liễu tà 
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc 
Khinh yên phóng nhập ngũ hầu gia 

Hàn Hoằng

(tiết Hàn Thực)

(trong thành vào mùa xuân không có chỗ nào không có hoa bay)
(gió đông trong tiết Hàn thực lay động liễu trong cung vua)
(xế chiều lệnh thắp nến truyền trong cung Hán)
(khói nhẹ bay tới tận khu cư ngụ của năm quan tước hầu)

Ghi chú: tiết Hàn Thực là tục có từ đời Hán, khởi đi từ ngày 3 tháng 3, 
mọi nhà không được dùng lửa nấu ăn trong 3 ngày liền.

Tiết Hàn Thực

Vườn xuân lác đác hoa bay
Tiết hàn gió lạnh lung lay liễu mềm
Đuốc vừa thắp sáng ngự viên
Khói bay tản mạn khu bên quan Hầu

SongNguyễn HànTú

unnamed

寒食汜上作 

王維 

廣武城邊逢暮春, 
汶陽歸客淚沾巾。 
落花寂寂啼山鳥, 
楊柳青青渡水人。

Quảng Vũ thành biên phùng mộ xuân 
Vấn Dương quy khách lệ trêm cân 
Lạc hoa tịch tịch đề sơn điểu 
Dương liễu thanh thanh độ thủy nhân 

Vương Duy

(đò tới ven thành Quảng Vũ tiết cuối xuân)
(khách về Vấn Dương nước mắt đẫm khăn)
(hoa rơi lặng lẽ, chim kêu trong núi)
(dương liẽu xanh xanh làm mát khách đi đò dọc)

Thuyền ngang Quảng Vũ cuối Xuân
Khách về lối Vấn lệ khăn ướt dầm
Chim kêu, hoa rụng âm thầm
Mắt theo liễu rũ xanh um ven bờ
*
SongNguyễn HànTú
unnamed

漢 茆 行

回 雁 高 飛 太 液 池
新 花 低 發 上 林 枝
年 光 到 處 皆 堪 賞
春 色 人 間 總 不 知

張 仲 素

Hán Uyển Hành 
Hồi nhạn cao phi Thái Dịch trì 
Tân hoa đê phát Thượng Lâm chi 
Niên quang đáo xứ giai kham thưởng 
Xuân sắc nhân gian tổng bất tri 

Trương Trọng Tố

(chim nhạn trở về bay cao trên ao Thái Dịch)
(hoa đã nở trên các cành thấp trong vườn Thượng Lâm)
(quanh năm chỗ nào cũng tới thưởng thức)
(nói chung mọi người chưa biết vẻ xuân tươi)

Bài Ca Vườn Hán Uyển

Cánh nhạn vút cao trên Thái Dịch
Thượng Lâm hoa đua nở rực trời
Quanh năm dạo bước trong trần cảnh
Nhân thế nào hay vẻ xuân tươi

SongNguyễn HànTú

unnamed

項 王 廟

緬 想 咸 陽 事 可 嗟
楚 歌 哀 怨 思 無 涯
八 千 弟 子 歸 何 處
萬 里 鴻 溝 屬 漢 家
弓 斷 陣 前 爭 日 月
血 流 垓 下 定 龍 蛇
拔 山 力 盡 烏 江 水
今 古 悠 悠 空 浪 花

靈 一

Hạng Vương Miếu 

Miến tưởng Hàm Dương sự khả ta 
Sở ca ai oán tứ vô nha 
Bát thiên đệ tử quy hà xứ 
Vạn lý Hồng Câu thuộc Hán gia 
Cung đoạn trận tiền tranh nhật nguyệt 
Huyết lưu Cai Hạ định long xà 
Bạt sơn lực tận Ô Giang thủy 
Kim cổ du du không lãng hoa 
Linh Nhất

(miếu Hạng Vương)

(nghĩ lại các việc trước ở Hàm Dương thực não lòng)
(bài ca cho nước Sở ý tứ ai oán vô hạn)
(tám ngàn đệ tử đã về nơi nào rồi)
(kinh Hồng câu dài vạn dặm về tay nhà Hán)
(tranh mệnh trời thì cung gãy trước trận)
(máu đổ ờ Cai Hạ đã phân định ai rồng ai rắn)
(con người có sức nhổ núi đã gục chết bên dòng Ô Giang)
(từ đó đến nay chỉ còn hoa dại vô tình gió lay như sóng)

Miếu Hạng Vương

Buồn thay nghĩ lại chuyện Hàm Dương
Lời Sở xa đưa tiếng hát buồn
Ngàn vạn thuộc nhân giờ đâu nhỉ
Kinh Hồng Hán chiếm hận còn vương
……
Giữa lúc giao tranh cung gãy đôi
Trận nơi Cai Hạ đã an bài
Dòng nước Ô Giang vùi thân thế
Ngàn đời hoa sóng lững lờ trôi

SongNguyễn HànTú

unnamed

行 宮

寥 落 古 行 宮
宮 花 寂 寞 紅
白 頭 宮 女 在
閒 坐 說 玄 宗

元 稹

Hành Cung 

Liêu lạc cố hành cung 
Cung hoa tịch mịch hồng 
Bạch đầu cung nữ tại 
Nhàn tọa thuyết Huyền Tông 
Nguyên Chẩn

(cung vua tạm trú ngoài kinh đô)

(hành cung xưa, nay hoang vắng và đổ nát)
(hoa trong cung vẫn đỏ trong hiu quạnh)
(người cung nữ tóc bạc ở đây)
(ngồi nhàn kể chuyện vua Huyền Tông)

Hành Cung

Hành cung cảnh quá tiêu điều
Ngự viên hoa nở tịch liêu hoang tàn
Cung phi tuổi hạc an nhàn
Nghê nga chuyện cũ ngai vàng Huyền Tông

SongNguyễn HànTú

unnamed

幸 蜀 回 至 劍 門

劍 閣 橫 雲 峻
鑾 輿 出 戍 回
翠 屏 千 仞 合
丹 嶂 五 丁 開
灌 木 縈 旗 轉
仙 雲 拂 馬 來
乘 時 方 在 德
嗟 爾 勒 銘 才

李 隆 基

Hạnh Thục Hồi Chí Kiếm Môn 

Kiếm Các hoành vân tuấn 
Loan dư xuất thú hồi 
Thúy bình thiên nhận hợp 
Đan chướng Ngũ Đinh khai 
Quán mộc oanh kỳ chuyển 
Tiên vân phất mã lai 
Thừa thời phương tại đức 
Ta nhữ lặc minh tài 

Lý Long Cơ

(vào Thục trở về qua cửa Kiếm)

(Kiếm Các có các đỉnh núi cao chạm mây)
(xe [có chuông loan của nhà vua]đi tuần thú trở về)
(nhiều núi xanh biếc cao cả ngàn nhận* hợp lại)
(vách núi đỏ này mở ra đường Ngũ Đinh)
(cờ xí chuyển quanh các lùm cây um tùm)
(mây cõi tiên chạm vào ngựa)
(nhờ có đức nên mới gặp cơ hội tốt)
(nên khắc bia đá ghi công người có tài)

Ghi chú: một “nhận” đời Đường bằng 6 thước 4 tấc 8 phân Tàu bây giờ.

Tới Cửa Kiếm Các Khi Trở Về

Ngất trời mây kìa đài cao Kiếm Các
Xe loan về sau tuần thú vùng xa
Hợp bình phong cao ngàn nhận mịt mờ
Ngũ Đinh mở từ vách triền núi đỏ
Cây cao vợi cờ tung bay rực rỡ
Như tiên đài quyện vó ngựa mây giăng
Đời thanh bình ban hồng phước muôn dân
Khắc bia đá ghi công trang nhân kiệt

SongNguyễn HànTú

unnamed

浩 初 上 人 見 貽
絕 句 欲 登 仙 人
山 因 以 謝 之珠 樹 玲 瓏 隔 翠 微
病 來 方 外 事 多 違
仙 山 不 屬 分 符 客
一 任 凌 空 錫 杖 飛柳 宗 元

Hạo Sơ Thượng Nhân Kiến Di 
Tuyệt Cú Dục Đăng Tiên Nhân Sơn 
Nhân Dĩ Tạ Chi 

Châu thụ linh lung cách thúy vi 
Bệnh lai phương ngoại sự đa vi 
Tiên sơn bất thuộc phân phù khách 
Nhất nhiệm lăng không tích trượng phi 

Liễu Tông Nguyên

(tu sĩ Hạo Sơ gửi tặng bài thơ
tuyệt cú mời lên núi Tiên Nhân nay viết không nhận lời)

(cây ngọc lấp lánh xa vời với chim bói cá nhỏ bé)
(đang có bệnh không tiện ra ngoài)
(núi tiên không phải chỗ cho kẻ làm quan lui tới)
(xin mời gậy tích trượng bay vào không gian lạnh)

Thơ Từ Chối Nhà Sư Hạo Sơ

Chim trời, cành ngọc xa nhau
Bước ngoài chẳng toại nằm đau thêm phiền
Đường quan cách biệt non tiên
Mong gậy tích trượng đạt miền bồng lai

SongNguyễn HànTú

unnamed

後 宮 詞

淚 盡 羅 巾 夢 不 成
夜 深 前 殿 按 歌 聲
紅 顏 未 老 恩 先 斷
斜 倚 薰 籠 坐 到 明

白 居 易

Hậu Cung Từ 

Lệ tận la cân mộng bất thành 
Dạ thâm tiến điện án ca thanh 
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn 
Tả ỷ huân lung tọa đáo minh 

Bạch Cư Dị
(Bài Cho Hậu Cung)

(lệ đẫm khăn lụa, ngủ không được)
(cả đêm tiếng ca hát ở điện trước)
(khách má hồng chưa già mà ơn vua đã hết) 
(ngồi nghiêng tựa vào lò hương cho đến sáng)

Bài Cho Hậu Cung

Lệ tràn thấm ướt khăn nàng
Nửa đêm nhộn nhịp điện vàng hát ca
Má hồng nào đã phôi pha
Lò hương ngồi tựa lệ nhòa suốt canh

SongNguyễn HànTú

unnamed

後 遊

寺 憶 曾 遊 處
橋 憐 再 渡 時
江 山 如 有 待
花 草 更 無 私
野 潤 煙 光 薄
沙 暄 日 色 遲
客 愁 全 為 減
捨 此 復 何 之

杜 甫

Hậu Du 

Tự ức tằng du xứ 
Kiều lân tái độ thời 
Giang sơn như hữu đãi 
Hoa thảo cánh vô tư 
Dã nhuận yên quang bạc 
Sa huyên nhật sắc trì 
Khách sầu toàn vi giảm 
Xả thử phục hà chi 

Đỗ Phủ

(dạo chơi cảnh cũ)

(cảnh chùa làm ta nhớ đã có lần đến)
(cây cầu làm ta thương lúc qua cầu lần nữa)
(đất nước như chờ đợi ta)
(hoa cỏ lại càng không của riêng ai)
(đồng nội tươi tốt, sương khói mờ nhạt)
(cát ấm, mặt trời lặn dần)
(nỗi buồn của khách hoàn toàn giảm bớt)
(bỏ nơi này thì còn biết đi đâu)

Dạo Chơi Cảnh Cũ

Vẫn cảnh chùa xưa ta đã đến
Qua cầu lòng nhen nhúm niềm thương
Non nước như mong chờ khách cũ
Chỉ riêng hoa cỏ chẳng tơ vương
…..
Cảnh mờ khói trắng, đồng tươi thắm
Bờ cát nằm phơi ấm nắng chiều
Lòng khách thảnh thơi quên sầu não
Tìm đâu ra cảnh quá dễ yêu

SongNguyễn HànTú

unnamed

戲 題 盤 石

可 憐 盤 石 臨 泉 水
復 有 垂 楊 拂 酒 盃
若 道 春 風 不 解 意
何 人 吹 送 落 花 來

王 維

Hí Đề Bàn Thạch 

Khả lân bàn thạch lâm tuyền thủy 
Phục hữu thùy dương phất tửu bôi 
Nhược đạo xuân phong bất giải ý 
Hà nhân xuy tống lạc hoa lai 

Vương Duy
(viết chơi trên phiến đá bằng)

(thương quá phiến bằng sát bên dòng suối) 
(lại có cành dương liễu rủ phất phơ trên chén rượu)
(nếu bảo rằng gió xuân không biết bày tỏ ý)
(thì ai là người thổi cánh hoa rơi bay tới đây?)

Viết Chơi Trên Phiến Đá Bằng

Thú vị quá, phiến đá bằng bên suối
Rượu thơm nồng cành liễu rủ buông lơi
Chắc gió xuân phải nặng ý cùng người
Nên đã thổi đưa cánh hoa xuống viếng ?

SongNguyễn HànTú

unnamed

喜 見 外 弟 又 言 別

十 年 離 亂 後
長 大 一 相 逢
問 姓 驚 初 見
稱 名 憶 舊 容
別 來 滄 海 事
語 罷 暮 天 鐘
明 日 巴 陵 道
秋 山 又 幾 重

李 益

Hỉ Kiến Ngoại Đệ Hựu Ngôn Biệt 

Thập niên ly loạn hậu 
Trưởng đại nhất tương phùng 
Vấn tính kinh sơ kiến 
Xưng danh ức cựu dung 
Biệt lai thương hải sự 
Ngữ bãi mộ thiên chung 
Minh nhật Ba Lăng đạo 
Thu sơn hựu kỷ trùng 

Lý Ích

(mừng gặp em họ ngoại, lại nói lời giã biệt)

(mười năm sau ly loạn)
(đã cao lớn rồi chúng ta mới lại gặp nhau)
(gặp lần đầu ta kinh ngạc hỏi họ)
(em nói tên ta liền nhớ ra khuôn mặt cũ)
(kể từ khi chia tay, biết bao tang thương biến đổi)
(chuyện trò xong chuông buổi chiều điểm)
(ngày hôm sau từ biệt đi Ba Lăng)
(lại nhiều rặng núi thu phải đi qua)

Mừng Gặp Em, Lại Từ Biệt

Đời loạn lạc cả mười năm xa cách
Gặp lại nhau nay đã lớn hết rồi
Biết họ tên mới ngơ ngẩn cả người
Hình dung lại dáng khi xưa còn bé
Đời từ lúc chia tay bao dâu bể
Cạn hàn huyên, chuông vừa điểm chiều buông
Sáng hôm sau lại từ biệt lên đường
Thu bảng lảng, núi trập trùng trước mặt

SongNguyễn HànTú

unnamed

曉 發 公 安 數 月 憩 息 此 縣

北 城 擊 柝 復 欲 罷
東 方 明 星 亦 不 遲
鄰 雞 野 哭 如 昨 日
物 色 生 態 能 幾 時
舟 楫 眇 然 去 自 此
江 湖 遠 適 無 前 期
出 門 轉 盻 已 陳 蹟
藥 餌 扶 吾 隨 所 之

杜 甫

Hiểu Phát Công An Sổ Nguyệt Khế Tức Thử Huyện 

Bắc thành kích thác phục dục bãi 
Đông phương minh tinh diệc bất trì 
Lân kê dã khốc như tạc nhật 
Vật sắc sinh thái năng kỷ thời 
Chu tiếp diễu nhiên khứ tự thử 
Giang hồ viễn thích vô tiền kỳ 
Xuất môn chuyển phán dĩ trần tích 
Dược nhĩ phù ngô tùy sở chi 

Đỗ Phủ

(sáng sớm rời huyện Công An sau mấy tháng nghỉ tại huyện này)

(nghe tiếng mõ ở cửa bắc toan bỏ ý định [ra đi])
(nhưng thấy sao sáng ở phương đông thì chưa muộn)
(tiếng gà eo óc nơi thôn xóm như hôm qua)
(vẻ sống của mọi vật [ta còn thấy] được bao lâu ?)
(mái chèo đẩy thuyền đi xa từ lúc này)
(những chuyến đi xa trên sông hồ không có hẹn trước)
(ra khỏi cửa nhìn lại tất cả đã thành dấu vết cũ)
(thuốc men giúp ta tùy tiện cho việc đi xa)

Rời Huyện Công An

Tính ngừng đi, Bắc mõ khua
Phương Đông sao sáng chắc chưa muộn màng
Gà quanh thôn vẫn gáy vang
Còn nhìn muôn vật nhịp nhàng được bao
Nương chèo khua nước tiêu dao
Bước phiêu du có khi nào hẹn đâu
Cảnh xa dần nhạt phía sau
Lênh đênh nhờ thuốc đỡ đau được nhiều

SongNguyễn HànTú

unnamed

曉 望

白 帝 更 聲 盡
陽 臺 曙 色 分
高 峰 上 寒 日
疊 嶺 宿 霾 雲
地 近 江 帆 遠
天 清 木 葉 聞
荊 扉 對 麊 鹿
應 共 爾 為 群

杜甫

Hiểu Vọng 

Bạch Đế canh thanh tận 
Dương Đài thự sắc phân 
Cao phong thướng hàn nhật 
Điệp lãnh túc mai vân 
Địa cận giang phàm viễn 
Thiên thanh mộc diệp thanh 
Kinh phi đối mi lộc 
Ưng cộng nhĩ vi quần 

Đỗ Phủ

(ngắm cảnh buổi sáng sớm)

(tiếng trống báo canh thành Bạch Đế đã ngưng)
(ánh nắng ban mai đã lộ ra trên đài Dưong Đài)
(mặt trời lạnh lẽo đã hiện ra trên ngọn núi cao)
(các đỉnh núi lô nhô trong mây mù)
(bờ đất ở gần, xa xa có cánh buồm trên sông)
(trời trong, có tiếng lá xào xạc)
(trước cổng đan bằng cây kinh có nai và hươu)
(ta muốn thành bầy với tụi bay)

Ngắm Cảnh Buổi Sớm

Cầm canh tiếng trống đã qua rồi
Dương Đài nắng sớm tỏa nơi nơi
Vừng dương lạnh lẽo trên đầu núi
Mờ nhạt hơi sương khắp núi đồi
Đất thấy thật gần, buồm xa tít
Lá khua, trong vắt một bầu trời
Nhìn đám hươu nai nơi đầu ngõ
Muốn cùng nhập bọn nhởn nhơ chơi
SongNguyễn HànTú

*

Cầm canh trống điểm đã ngưng
Dương Đài dần hiện giữa vùng nắng mai
Đỉnh cao vừng Thái nhú rồi
Núi lô nhô giữa khoảng trời mù sương
Xa xa một cánh buồm dương
Lá khua trong gió, khí quang đỉnh trời
Hươu nai chạy nhẩy cổng ngoài
Vu vơ lòng muốn họp bầy nhởn nhơ

NguyễnTâmHàn
unnamed

湖 口 望 廬 山 瀑 布 水

萬 丈 紅 泉 落
迢 迢 半 紫 氛
奔 流 下 雜 樹
灑 落 出 重 雲
日 照 虹 霓 似
天 清 風 雨 聞
靈 山 多 秀 色
空 水 共 氤 氳

張 九 齡

Hồ Khẩu Vọng Lư Sơn Bộc Bố Thủy 

Vạn trượng hồng tuyền lạc 
Thiều thiều bán tử phân 
Bôn lưu há tạp thụ 
Sái lạc xuất trùng vân 
Nhật chiếu hồng nghê tự 
Thiên thanh phong vũ văn 
Linh sơn đa tú sắc 
Không thủy cộng nhân uân 

Trương Cửu Linh

(từ Hồ Khẩu ngắm thác nước núi Lư)

(từ trên cao vạn trượng suối nước hổ xuống)
(quãng giữa có làn hơi tía tỏa lan man)
(nước rơi mau xuống rừng đủ loại cây)
(phăng phăng qua nhiều lớp mây)
(ánh nắng chiếu tạo ra cầu vồng)
(trời trong mà nghe như có mưa to và gió mạnh)
(quả núi huyền bí có nhiều màu sắc đẹp)
(nước chảy từ thinh không cộng với khí trời đất)

Ngắm Thác Nước Núi Lư từ Hồ Khấu

Từ muôn trượng nước ầm ầm đổ xuống
Giữa lưng chừng làn hơi tím mịt mù
Nước chảy vào vùng cây cối âm u
Bọt trắng xóa lẫn trong vầng mây thấp
Vạt nắng dọi ánh mống vồng ngũ sắc
Trời trong thanh ngỡ mưa gió vi vu
Cảnh núi non nhìn khách luống thẫn thờ
Khí thanh thoát giữa mênh mông mây nước

SongNguyễn HànTú

unnamed

和 楊 尚 書 罷 相 後,
夏 遊 永 安 水 亭 兼
招 本 曹 楊 侍 郎 同 行道 行 無 喜 ,退 無 憂
舒 捲 如 雲 得 自 由
良 冶 動 時 為 哲 匠
巨 川 濟 了 作 虛 舟
竹 亭 陰 合 偏 宜 頁
水 檻 風 涼 不 待 秋
遙 愛 翩 翩 雙 紫 鳳
入 同 官 署 出 同 遊白 居 易

Họa Dương Thượng Thư Bãi Tướng Hậu 
Hạ Du Vĩnh An Thủy Đình Kiêm Chiêu 
Bản Tào Dương Thị Lang Đồng Hành 

Đạo hành vô hỉ thoái vô ưu 
Thư quyển như vân đắc tự do 
Lương dã động thì vi triết tượng 
Cự xuyên tế liễu tác hư chu 
Trúc đình âm hợp thiên nghi hạ 
Thủy hạm phong lương bất đãi thu 
Dao ái phiên phiên song tử phụng 
Nhập đồng quan thự xuất đồng du 

Bạch Cư Dị

(họa thơ của Dương Thượng Thư sau khi
thôi làm quan, mùa hè đi chơi thủy đình Vĩnh An
còn mời quan đồng liêu Thị Lang họ Dương cùng đi)

(khi làm việc không mừng, khi nghỉ việc không lo)
(mở ra cuốn vào như mây theo ý mình)
(khôn khéo, khi làm là tay thợ giỏi)
(con sông lớn, khi qua rồi là con thuyền không)
(đình trúc rợp mát lúc nào cũng như mùa hè)
(hiên trên nước có gió mát chẳng cần đợi mùa thu)
(có đôi chim phụng tía bay xa bên nhau trìu mến)
(về triều là quan đồng liêu, xuất triều cùng đi chơi)

Họa Thơ Của Quan Thượng Thư Họ Dương Sau
Khi Nghỉ Việc Đi Chơi Hè Tại Nhà Thủy Tạ Vĩnh An
Có Quan Đồng Liêu Thị Lang Họ Dương Cùng Đi

Theo lẽ đạo, hành hay thôi cũng vậy
Chẳng buồn vui, mở cuốn tựa mây trời
Thợ khéo tay, khéo rèn đúc vậy thôi
Qua sông lớn, thuyền trống không bỏ đó
Đình rợp bóng quanh năm như hè đỏ
Ao ngang hiên đâu cần ngóng thu sang
Nhìn xa xa đôi phượng tía chập chờn
Làm cùng chốn, chơi cùng nơi thư thả

SongNguyễn HànTú

unnamed

和 賈 至 舍 人 早
朝 大 明 宮 之 作五 夜 漏 聲 催 曉 箭
九 重 春 色 醉 仙 棑
旌 旗 日 煖 龍 蛇 動
宮 殿 風 微 燕 雀 高
朝 罷 香 煙 攜 滿 袖
詩 成 珠 玉 在 揮 毫
欲 知 世 掌 絲 綸 美
池 上 於 今 有 鳳 毛杜 甫

Họa Giả Chí “Tảo 
Triều Đại Minh Cung” Chi Tác 

Ngũ dạ lậu thanh thôi hiểu tiễn 
Cửu trùng xuân sắc túy tiên đào 
Tinh kỳ nhật noãn long sà động 
Cung điện phong vi yến tước cao 
Triều bãi hương yên huề mãn tụ 
Thi thành châu ngọc tại huy hào 
Dục tri thế chưởng ty luân mỹ 
Trì thượng ư kim hữu phượng mao 

Đỗ Phủ
(họa bài “Chầu Sớm Ở Cung Đại Minh”
của quan Xá nhân Giả Chí)

(năm tiếng trống báo trời đã sáng)
(trên điện chầu vẻ xuân như đang say đào tiên)
(dưới nắng ấm cờ có hình rồng, rắn phấp phới)
(trong cung điện có gió nhẹ, chim yến và chim sẻ trên cao)
(buổi chầu xong hương thơm tụ đầy tay áo)
(ý thơ thành lập thì cứ vung bút là ra lời châu ngọc)
(muốn biết vẻ đẹp truyền đời của lụa viết lệnh vua}
(thì hãy xem lông chim phượng còn tới nay trên ao)

Họa Bài “Chầu Sớm Nơi Cung Đại Minh”
Của Quan Xá Nhân Giả Chí

Tiếng trống sang canh vừa điểm sáng
Đào tiên ngây ngất vẻ xuân nồng
Rồng rắn trên cờ vờn nắng ấm
Én trong gió nhẹ vút trời không

Qua chầu hương bám thơm tay áo
Bút hạ nét rồng, ý ngọc châu
Uy lực sáng ngời, vằng vặc mãi
Ao còn lông phượng đến ngàn sau

SongNguyễn HànTú

unnamed

和 練 季 才 揚 柳

水 邊 楊 柳 綠 煙 絲
立 馬 煩 君 折 一 枝
惟 有 春 風 最 相 惜
殷 勤 更 向 手 中 吹

楊 巨 源

Họa Luyện Tú Tài “Dương Liễu” 

Thủy biên duơng liễu lục yên ti 
Lập mã phiền quân chiết nhất chi 
Duy hữu xuân phong tối tương tích 
Ân cần cánh hướng thủ trung xuy 

Dương Cự Nguyên
(họa bài thơ “Dương Liễu” của tú tài họ Luyện)

(dương liễu bên bờ nước ra bông như những sợi khói xanh)
(dừng ngựa mong ai bẻ dùm một cành)
(chỉ có ngọn gió xuân là thương mến nhau nhất)
(nên đã trìu mến thổi tới tận tay)

Họa Bài “Dương Liễu” Của Tú Tài Họ Luyện

Hàng tơ liễu thả buông như khói biếc
Lỏng tay cương đưa tay với…mơ màng
Chỉ gió xuân là quí khách…dịu dàng
Thổi nhè nhẹ đưa vào tay…mơn trớn

SongNguyễn HànTú

unnamed

宿 王 昌 齡 隱 居

清 谿 深 不 測
隱 處 惟 孤 雲
松 際 露 微 月
清 光 猶 為 君
茅 庭 宿 花 影
藥 院 滋 苔 紋
余 亦 謝 時 去
西 山 鸞 鶴 群

常 建

Túc Vương Xương Linh Ẩn Cư 

Thanh khê thâm bất trắc 
Ẩn xứ duy cô vân 
Tùng tế lộ vi nguyệt 
Thanh quang do vị quân 
Mao đình túc hoa ảnh 
Dược viện tư đài văn 
Dư diệc tạ thời khứ 
Tây sơn loan hạc quần 

Thường Kiến
(qua đêm tại nơi Vương Xương Linh ở ẩn)

(suối nước trong và sâu không đo được) 
(nơi ở ẩn chỉ có một cụm mây lẻ loi). 
(trên đầu rặng thông hơi sương hé chút ánh trăng) 
(ánh trăng mát mẻ đó luôn luôn tìm đến ông ) 
(trên mái nhà cỏ in bóng cành hoa buông rủ) 
(nơi trồng thuốc rêu xanh mọc lan thành từng vệt) 
(ta đã từ bỏ việc đời) 
(tới núi Tây làm bạn với chim [ở tiên giới] loan và hạc) 

Qua đêm tại nơi Vương Xương Linh ở ẩn

Suối trong vắt một dòng sâu thăm thẳm
Giữa lưng trời mây lơ lửng cô đơn
Qua hàng thông anh trăng tỏa dịu hiền
Chắc mến bạn nên trăng hay ghé lại
Căn nhà cỏ, bóng hoa in trên mái
Gian trồng cây, vết rêu phủ lan dài
Chán bon chen, lòng cũng muốn xa đời
Núi Tây ẩn cùng hạc loan thong thả

SongNguyễn HànTú
unnamed

歲 暮 歸 南 山

北 闕 休 上 書
南 山 歸 敝 廬
不 才 明 主 棄
多 病 故 人 疏
白 髮 催 年 老
青 陽 逼 歲 除
永 懷 愁 不 寐
松 月 夜 窗 虛

孟 浩 然

Tuế Mộ Quy Nam Sơn 

Bắc khuyết hưu thướng thư 
Nam sơn quy tệ lư 
Bất tài minh chủ khí 
Đa bệnh cố nhân sơ 
Bạch phát thôi niên lão 
Thanh dương bức tuế trừ 
Vĩnh hoài sầu bất mị 
Tùng nguyệt hạ song hư 

Mạnh Hạo Nhiên

(cuối năm trở về núi [Chung] Nam)

(nghỉ làm việc ở cung Bắc [kinh đô])
(trở về ngôi nhà tranh cũ ở núi [Chung] Nam)
(không có tài nên bị vua anh minh phế bỏ)
(nhiều bệnh tật nên bạn cũ bớt thân thiết) 
(tóc bạc thôi thúc tuổi già tới)
(vẻ xuân xua năm cũ hết)
(cứ thao thức buồn không ngủ được)
qua cửa sổ vắng lặng thấy bóng trăng và cây thông) 

Cuối Năm Về Núi Chung Nam

Việc triều chính quên đi thôi về lại 
Mái nhà tranh nơi rừng núi Chung Nam 
Chút tài thô vua chẳng cấp phẩm hàm 
Nhiều bệnh tật bạn bè dần xa hết 
Mới thoáng đấy tóc trắng phau như tuyết 
Xuân lại về đuổi năm cũ ra đi 
Suốt năm canh nằm trằn trọc, não nề 
Thông in bóng vành trăng qua song cửa

SongNguyễn HànTú

unnamed

歲 晚 自 感

人 皆 欲 得 長 年 少
無 邢 排 門 白 髮 催
一 向 破 除 愁 不 盡
百 方 迴 避 老 須 來
草 堂 未 辨 終 須 置
松 樹 難 成 亦 且 栽
瀝 酒 願 從 今 日 後
更 逢 二 十 度 花 開

王 建

Tuế Vãn Tự Cảm 

Nhân giai dục đắc trường niên thiếu 
Vô ná bài môn bạch phát thôi 
Nhất hướng phá trừ sầu bất tận 
Bách phương hồi tị lão tu lai 
Thảo đường vị biện chung tu trí 
Tùng thụ nan thành diệc thả tài 
Lịch tửu nguyện tòng kim nhật hậu 
Cánh phùng nhị thập độ hoa khai 

Vương Kiến
(cảm nghĩ lúc cuối năm)

(người ta ai cũng muốn được trẻ mãi)
(mà khi mở cửa [để ra ngoài] là thấy tóc bạc cứ đâm ra)
(nhất định dẹp bỏ nỗi buồn thì buồn cứ còn hoài)
(tìm trăm cách để lẩn trốn tuổi già, thì già vẫn tới)
(chưa bàn đến làm nhà cỏ lúc này, cuối cùng vẫn phải làm)
(trồng thông khó thành, rồi cũng vẫn trồng được)
(rót rượu khấn nguyện kể từ hôm nay trở đi)
([xin trời cho con] còn thấy được 20 mùa hoa nở nữa)

Cuối Năm Tự Thương Mình

Những mong trẻ mãi không già
Ngờ đâu mở cửa tóc pha sương rồi
Đuổi buồn, buồn vẫn lì ngồi
Trốn già, già chẳng riêng ai vị tình
Thoắt rồi đã thấy mái tranh
Thông ương dù khó trồng thành đấy thôi
Rượu nâng khấn nguyện đất trời
Cho xem hoa nở hai mươi lần tròn

SongNguyễn HànTú

unnamed

相 思

紅 豆 生 南 國
春 來 發 幾 枝
願 君 多 采 擷
此 物 最 相 思

王 維

Tương tư 

Hồng đậu sinh nam quốc 
Xuân lai phát kỷ chi 
Nguyện quân đa thái biệt 
Thử vật tối tương tư 

Vương Duy

Tương tư 

(đậu đỏ trồng tốt ở miền[Lĩnh] nam)
(đến mùa xuân thì đâm ra nhiều cành) 
(xin anh hãy hái thật nhiều) 
(vì đó là vật tượng trưng cho nỗi nhớ nhau nhất). 

Tương tư

Trời Nam đậu đỏ trồng đầy
Mùa Xuân cành lá trên cây trổ nhiều
Hái đi chàng, hái cho nhiều
Gom bao nhiêu lá, bấy nhiêu là tình

SongNguyễn HànTú
unnamed

醉 後 贈 張 旭

世 上 漫 相 識
此 翁 殊 不 然
興 來 書 以 聖
醉 後 語 尤 顛
白 髮 老 閒 事
青 雲 在 目 前
床 頭 一 壺 酒
能 便 幾 回 眠

高 適

Túy Hậu Tặng Trương Húc 

Thế thượng mạn tương thức 
Thử ông thù bất nhiên 
Hứng lai thư tự thánh 
Tuý hậu ngữ vưu điên 
Bạch phát lão nhàn sự 
Thanh vân tại mục tiền 
Sàng đầu nhất hồ tửu 
Năng tiện kỷ hồi miên 

Cao Thích

(tặng Trương Húc sau cơn say)

(trên đời ta chỉ biết người qua loa)
(nhưng với ông này thì khác hẳn)
(khi có hứng, ông ta viết như thánh)
(say rồi, ông ta nói còn hăng hơn kẻ điên)
(nay đầu bạc ông hưởng nhàn)
(lúc nào cũng ngắm đám mây xanh trước mắt)
(đầu giường có sẵn bầu rượu)
(để thuận tiện mỗi khi thức giấc [có rượu uống ngay])

Tặng Trương Húc Sau Cơn Say

Đường đời chẳng rõ thế nhân
Nhưng riêng với bác thì gần gũi hơn
Viết như thánh lúc nổi cơn
Rượu vào hươu vượn chả còn sợ ai
Giờ đầu tóc đã sương phai
Vẫn ngông như lúc tuổi đời thanh xuân
Đầu giường hũ rượu sát gần
Thức giấc là có chả cần kiếm xa

SongNguyễn HànTú

unnamed

宣 州 謝 朓 樓 餞
別 校 書 叔 雲棄 我 去 者
昨 日 之 日 不 可 留
亂 我 心 者
今 日 之 日 多 煩 憂
長 風 萬 里 送 秋 雁
對 此 可 以 酣 高 樓
蓬 萊 文 章 建 安 骨
中 間 小 謝 又 清 發
俱 懷 逸 興 壯 思 飛
欲 上 青 天 覽 明 月
抽 刀 斷 水 水 更 流
舉 杯 銷 愁 愁 更 愁
人 生 在 世 不 稱 意
明 朝 散 髮 弄 扁 舟李 白

Tuyên Châu Tạ Diễu lâu (tại Tuyên Châu, trên lầu Tạ Diễu
tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân tiễn biệt chú Vân, làm quan Hiệu thư)

Khí ngã khứ giả (bỏ cháu mà đi)
Tạc nhật chi nhật bất khả lưu (ngày của ngày qua không giữ được) 
Loạn ngã tâm giả (làm rối lòng cháu) 
Kim nhật chi nhật đa phiền ưu (ngày của ngày nay biết bao chuyện ưu phièn) 
Trường phong vạn lý tống thu nhạn (gió dài đưa cánh nhạn thu [chú] bay đi vạn dặm) 
Đối thử khả dĩ hàm cao lâu (trưóc cảnh ấy chỉ có thể uống say trên lầu cao)
Bồng lai văn chương Kiến An cốt (văn chương [của chú như của cõi] Bồng Lai có cốt cách thời Kiến An [Hán]
Trung gian Tiểu Tạ hựu thanh phát (ở giữa lại có [cháu cùng ông] Tiểu Tạ phong cách tuyệt vời) 
Cụ hoài dật hứng tráng tứ phi (mang đầy hứng khởi, ý tứ hùng tráng bay lên)
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt (muốn lên đến trời xanh để nắm bắt vầng trăng sáng)
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu ([hôm nay cháu] rút dao chém xuống nước, nước càng chảy mạnh thêm) 
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu (nâng chén tiêu sầu, càng sầu thêm)
Nhân sinh tại thế bất xứng ý (con người ta ở nơi trần thế nếu chưa thỏa ý)
Minh triêu tản phát lộng biên chu (sơm mai hãy xõa tóc [từ quan] lướt chiếc thuyền nhỏ rong chơi)

Lý Bạch
Tuyên Châu Tạ Diễu lâu 
tiễn biệt Hiệu thư Thúc Vân 

Khí ngã khứ giả 
Tạc nhật chi nhật bất khả lưu 
Loạn ngã tâm giả 
Kim nhật chi nhật đa phiền ưu 
Trường phong vạn lý tống thu nhạn 
Đối thử khả dĩ hàm cao lâu 
Bồng lai văn chương Kiến An cốt 
Trung gian Tiểu Tạ hựu thanh phát 
Cụ hoài dật hứng tráng tứ phi 
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt 
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu 
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu 
Nhân sinh tại thế bất xứng ý 
Minh triêu tản phát lộng biên chu 

(tại Tuyên Châu, trên lầu Tạ Diễu
tiễn biệt chú Vân, làm quan Hiệu thư)

(bỏ cháu mà đi)
(ngày của ngày qua không giữ được) 
(làm rối lòng cháu) 
(ngày của ngày nay biết bao chuyện ưu phièn) 
(gió dài đưa cánh nhạn thu [chú] bay đi vạn dặm) 
(trưóc cảnh ấy chỉ có thể uống say trên lầu cao)
(văn chương [của chú như của cõi] Bồng Lai có cốt cách thời Kiến An [Hán]
(ở giữa lại có [cháu cùng ông] Tiểu Tạ phong cách tuyệt vời) 
(mang đầy hứng khởi, ý tứ hùng tráng bay lên)
(muốn lên đến trời xanh để nắm bắt vầng trăng sáng)
([hôm nay cháu] rút dao chém xuống nước, nước càng chảy mạnh thêm) 
(nâng chén tiêu sầu, càng sầu thêm)
(con người ta ở nơi trần thế nếu chưa thỏa ý)
(sơm mai hãy xõa tóc [từ quan] lướt chiếc thuyền nhỏ rong chơi)

Tại Tuyên Châu, trên lầu Tạ Diễu
tiễn biệt chú Vân, làm quan Hiệu thư

Chú cất bước đi
Như ngày qua mất hỏi còn chi
Cháu lòng rối loạn
Thời gian qua … ngàn vạn não nề
Gió đưa nhạn biệt sơn khê
Bên lầu rượu tiễn càng tê tái lòng
Như thời Kiến, non Bồng thơ chú
Ngang lưng trời thơ phú Tạ ông
Ý hùng bay vút không trung
Bay lên chín cõi nắm vầng trăng đêm
Vung kiếm chém nước thêm chảy mạnh
Rượu giải sầu canh cánh sầu thêm
Trần ai ước vọng … ngược duyên
Một mai xoã tóc theo thuyền ngao du

SongNguyễn HànTú

unnamed

宣 城 見 杜 鵑 花

蜀 國 曾 聞 子 規 鳥
宣 城 還 見 杜 鵑 花
一 叫 一 迴 腸 一 斷
三 春 三 月 憶 三 巴

李 白

Tuyên Thành Kiến Đỗ Quyên Hoa 

Thục quốc tằng văn tử quy điểu 
Tuyên Thành hoàn kiến đỗ quyên hoa 
Nhất khiếu nhất hồi trường nhất đoạn 
Tam xuân tam nguyệt ức Tam Ba 

Lý Bạch

(xem hoa đỗ quyên tại Tuyên Thành)

([khi] ở nước Thục [ta] từng được nghe [truyền thuyết về] chim cuốc)
([nay] ở Tuyên Thành lại thấy hoa đỗ quyên)
([chim cuốc] mỗi tiếng kêu, mỗi vang vọng, mỗi đau lòng [vì nhớ quê])
([làm ta]cả 3 tiết xuân, suốt 3 tháng, đều nhớ về Tam Ba [Thục])

Xem Hoa Đỗ Quyên Nơi Tuyên Thành

Đã nghe tiếng cuốc rã rời
Tại nơi đất Thục giờ trời thành Tuyên
Lại nhìn thấy dạng đỗ quyên
Cuốc kêu
Hoa đỗ
Gợi niềm xót xa
Suốt mùa Xuân nhớ Tam Ba

SongNguyễn HànTú

unnamed

絕 句古 木 陰 中 繫 短 蓬
杖 藜 扶 我 過 橋 東
沾 衣 欲 濕 杏 花 雨
吹 面 不 寒 楊 柳 風僧 志 安

Tuyệt Cú 

Cổ mộc âm trung hệ đoản bồng 
Trượng lê phù ngã quá kiều đông 
Triêm y dục thấp hạnh hao vũ 
Xuy diện bất hàn dương liễu phong 

Tăng Chí An 

(bài 4 câu không tên)

(buộc [thuyền] ngắn nhẹ nơi bóng râm của cây già)
(chống gậy gỗ lê đi tới cánh phía đông của cây cầu)
(hạt mưa đọng trên đám hoa hồng hạnh rơi ướt qua áo)
(làn gió qua dương liễu thổi vào mặt không lạnh lắm)

Không Tên

bài 1
Buộc thuyền dưới bóng cây già
Cành lê làm gậy bước qua đông cầu
Ướt vai mưa hạnh phủ đầu
Gió lùa qua liễu tưởng đâu lạnh lùng

bài 2
Dưới bóng tàng cây buộc thuyền câu
Gậy lê phụ bước lối đông cầu
Hạnh mưa lả tả vương trên áo
Qua liễu gió lùa chửa lạnh đâu

SongNguyễn HànTú

unnamed

絕 句

二 句 三 年 得
一 吟 雙 淚 流
知 音 如 不 賞
歸 臥 故 山 秋

賈 島

Tuyệt cú 

Nhị cú tam niên đắc 
Nhất ngâm song lệ lưu 
Tri âm như bất thưởng 
Quy ngọa cố sơn thu 

Giả Đảo

(bài 4 câu không tên)

(làm 2 câu thơ phải 3 năm mới vừa ý)
(mỗi lần ngâm lên là nước mắt dâng trào) 
(bạn bè tri âm mà không thưởng thức được) 
(thì đành quay về núi cũ nằm suốt mùa thu)

bài 4 câu không tên

Ba năm làm được mấy câu
Mỗi lần ngâm mắt lệ trào xót xa
Thơ hay bạn chẳng biết ra
Đành về núi cũ hưởng mùa Thu thôi

SongNguyễn HànTú
unnamed

絕 句

破 卻 千 家 作 一 池
不 栽 桃 李 種 薔 薇
薔 薇 花 落 秋 風 起
荊 棘 滿 庭 君 始 知

賈 島

Tuyệt cú 

Phá khước thiên gia tác nhất trì 
Bất tài đào lý chủng tường vi 
Tường vi hoa lạc thu phong khởi 
Kinh cức mãn đình quân thủy tri 

Giả Đảo 

Tuyệt cú 

(phá bò ngàn nhà để đào một ao)
(không trồng đào mận mà trồng tường vi)
(khi gió thu nổi lên, hoa hồng rụng hết)
(vườn còn lại toàn gai góc, lúc đó ông mới biết) 

Tuyệt Cú
Đào ao dẹp bỏ ngàn nhà 
Chẳng trồng đào, mận, rặt là tường vi 
Hoa rơi ngập lúc thu về 
Cỏ gai nhọn mọc tứ bề . . . hỡi ơi 

SongNguyễn HànTú 

unnamed

絕 句江 碧 鳥 逾 白
山 青 花 欲 然
今 春 看 又 過
何 日 是 歸 年杜 甫

Tuyệt Cú 

Giang bích điểu du bạch 
Sơn thanh hoa dục nhiên 
Kim xuân khán hựu qua 
Hà nhật thì qui niên ? 

Đỗ Phủ

(bài 4 câu không tên)

(màu biếc của sông làm chim như trắng hơn)
(màu xanh của núi rừng làm hoa như bốc lửa)
(vẻ xuân năm nay đã thấy trở lại)
([còn ta] biết ngày nào mới là năm về [quê cũ]? )

Bài 4 câu không tên

Nước sông biếc làm hoa thêm trắng
Mầu núi xanh hồng thắm sắc hoa
Dáng thanh xuân đã hiện ra
Ngày nào mới được quê nhà đoàn viên ?

SongNguyễn HànTú
unnamed

幽 居選 得 幽 居 愜 野 情
終 年 無 送 亦 無 迎
有 時 直 上 孤 峰 頂
月 下 披 雲 叫 一 聲李 翱

U Cư 

Tuyển đắc u cư khiếp dã tình 
Chung niên vô tống diệc vô nghênh 
Hữu thời trực thướng cô phong đính 
Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thanh 

Lý Ngao

(ở ẩn)

(đã chọn được chỗ ẩn dật thỏa tình hoang dã)
(cả năm chẳng đưa chẳng đón ai)
(có lúc leo lên tận đỉnh một ngọn núi chơ vơ) 
(dưới ánh trăng, hét một tiếng [như] xé tầng mây)

Ở ẩn

Được chốn hoang vu thỏa ước mong
Chẳng đưa chẳng đón thú vô cùng
Đôi khi đỉnh núi cao vời vợi
Hét tản mây trời, xé không trung

SongNguyễn HànTú

unnamed

憶 弟 二 首

其 一

喪 亂 聞 吾 弟
飢 寒 傍 濟 州
人 稀 書 不 到
兵 在 見 何 由
憶 昨 狂 催 走
無 時 病 去 憂
即 今 千 种 恨
惟 共 水 東 流

杜甫

Ức Đệ Nhị Thủ 

kỳ nhất 

Táng loạn văn ngô đệ 
Cơ hàn bạng Tế Châu 
Nhân hi thư bất đáo 
Binh tại kiến hà do ? 
Ức tạc cuồng thôi tẩu 
Vô thì bệnh khứ ưu 
Tức kim thiên chủng hận 
Duy cộng thuỷ đông lưu 

Đỗ Phủ
(hai bài “Nhớ Em Trai”)

(bài 1)

(chạy loạn tan tác, vừa được tin em trai ta) 
(hiện đang đói rét tá túc gần Tế châu) 
(người vắng, thư từ gửi không tới) 
(còn đang giao tranh làm sao mà gặp nhau được?}
(nhớ lúc trước cuồng cuồng thúc giục nhau chạy)
(không lúc nào ngớt đau yếu và lo lắng)
(bây giờ sầu hận cả ngàn điều) 
(chỉ còn đành buông xuôi như dòng nước chảy về đông)

Nhớ Em Trai

bài 1

Thời loạn lạc nghe tin em vất vưởng
Đang cơ hàn nương náu đất Tề châu
Người vắng thưa nào thư biết gửi đâu
Còn binh lửa chẳng làm sao gặp mặt
Nhớ lúc trước phải cuống cuồng chạy giặc
Không lúc nào bớt lo lăng ốm đau
Giờ trong lòng ngàn vạn nỗi hận sầu
Đành phó mặc như nước xuôi đông vậy

SongNguyễn HànTú

unnamed

憶 弟 二 首

其 二

且 喜 河 南 定
不 問 鄴 城 圍
百 戰 今 誰 在?
三 年 望 汝 歸
故 園 花 自 發
春 日 鳥 還 飛
斷 絕 人 煙 久
東 西 消 息 稀

杜甫

Ức Đệ nhị thủ 

kỳ nhị 

Thả hỉ Hà Nam định 
Bất vấn Nghiệp thành vi 
Bách chiến kim thùy tại ?
Tam niên vọng nhữ quy 
Cố hương hoa tự phát 
Xuân nhật điểu hoàn phi 
Đoạn tuyệt nhân yên cửu 
Đông tây tiêu tức hi 

Đỗ Phủ
(hai bài “Nhớ Em Trai”)
(bài 2)

(hãy cứ mừng Hà Nam đã lấy lại được)
(chưa kể tới nơi thành Nghiệp [quân ta] đang vây địch)
([trải qua] biết bao nhiêu trận đánh ai còn [ai mất]?)
(đã ba năm qua, mong chờ em trở về) 
(nơi quê cũ hoa vẫn cứ nở) 
(ngày xuân, chim vẫn bay)
(khói bếp [mọi nhà] đã thôi bốc lên từ lâu)
(tin tức hai miền đông và tây ít oi)

Nhớ Em Trai

bài 2

Mừng Hà Nam đã yên rồi
Đấy là chưa nói trận nơi Nghiệp Thành
Ba năm chẳng biết dữ, lành
Mong ngày trở lại em anh xum vầy
Vườn nhà hoa vẫn nở đầy
Ngày xuân chim chóc về bay ngập trời
Xóm làng bếp lạnh lâu rồi
Đông Tây thưa thớt vắng người đưa tin

SongNguyễn HànTú

unnamed

憶 東 山

不 向 東 山 久
薔 薇 幾 度 花
白 雲 還 自 散
月 明 落 誰 家

李 白

Ức Đông Sơn 

Bất hướng Đông Sơn cửu 
Tường vi kỷ độ hoa 
Bạch vân hoàn tự tán 
Minh nguyệt lạc thùy gia 

Lý Bạch

(nhớ núi Đông Sơn)

(đã lâu không về thăm Đông Sơn)
(hoa tường vi đã nở được bao nhiêu lần rồi?) 
(mây trắng vẫn tự tản ra?) 
(trăng sáng lặn xuống nhà ai?)

Nhớ Đông Sơn

Lâu rồi không ghé Đông Sơn 
Tường vi đã trải mấy lần nở hoa 
Mây trời hẳn vẫn tản qua 
Chị Hằng chả biết ghé nhà ai đây

SongNguyễn HànTú 

unnamed

憶 山 泉

穿 雲 絡 石 細 湔 湔
沓 沓 疑 聞 美 管 絃
千 仞 洒 來 寒 碎 玉
一 泓 深 去 碧 涵 天
煙 迷 葉 乿 尋 難 見
月 好 風 清 聽 不 眠
春 雨 正 多 歸 未 得
只 應 流 恨 水 潺 潺

吳 融

Ức Sơn Tuyền 

Xuyên vân lạc thạch tế tiên tiên 
Đạp đạp nghi văn mỹ quản huyền 
Thiên nhận sái lai hàn toái ngọc 
Nhất hoằng thâm khứ bích hàm thiên 
Yên mê diệp loạn tầm nan kiến 
Nguyệt hảo phong thanh thính bất miên 
Xuân vũ chính đa quy vị đắc 
Chỉ ưng lưu hận thủy sàn sàn 

Ngô Dung

(nhớ con suối chảy trên sườn núi)

(một dòng chảy xiết thấp thoáng trong mây, quanh co trên đá)
([phát ra] tiếng róc rách như tiếng sáo tiếng đàn)
(từ độ cao cả ngàn sải tay, nước rơi xuống tung tóe như ngọc vỡ)
(một vực sâu thăm thẳm chứa [phản chiếu] khoảng trời xanh biếc)
(sương khói mê ảo, lá cây mọc loạn nên khó thấy [con suối])
(trăng sáng đẹp, gió rì rào nghe không muốn ngủ)
(lúc này mưa xuân đang nặng hạt chưa thể về được)
(chỉ còn nước trút bỏ nỗi buồn cho dòng nước chảy róc rách cuốn đi)

Nhớ Suối Núi

Suối quanh co lẩn trong mây
Tiếng như đàn sáo đâu đây rì rào
Vỡ tung nước tự ngàn cao
Trời xanh lẩn trốn tận vào đáy sâu
Lá, sương chẳng thấy suối đâu
Ngắm trăng, hưởng gió ngủ nào đành tâm
Mưa xuân nặng hạt cầm chân
Nỗi buồn trút gởi theo làn nước trôi

SongNguyễn HànTú

unnamed

聞 白 樂 天 左 降
江 洲 司 馬殘 燈 無 焰 影 憧 憧
此 夕 聞 君 謫 九 江
垂 死 病 中 驚 坐 起
暗 風 吹 雨 入 寒 窗元 稙

Văn Bạch Lạc Thiên Tả Giáng 
Giang Đông Tư Mã 

Tàn đăng vô diệm ảnh chàng chàng 
Thử tịch văn quân trích Cửu Giang 
Thùy tử bệnh trung kinh tọa khởi 
Ám phong suy vũ nhập hàn song 

Nguyên Chẩn

(nghe Bạch Lạc Thiên bị giáng xuống
làm quan Tư mã ở Giang Châu)

(đèn đã lụn bấc không đủ sáng, hình bóng chập chờn)
(tối nay nghe tin ông bị giáng chức đi Cửu Giang)
(tôi đang bịnh gần chết cũng hoảng kinh ngồi nhỏm dậy)
(trong bóng đêm gió thổi tạt mưa lạnh vào qua cửa sổ)

Nghe Bạch Lạc Thiên bị giáng xuống
làm quan Tư mã ở Giang Châu

Đèn le lói, bóng chập chờn mờ ảo
Được tin ông bị đầy tới Cửu Giang
Bệnh liệt giường bỗng nhỏm dậy bàng hoàng
Gió hiu hắt lùa mưa qua cửa sổ

SongNguyễn HànTú

 

Leave a comment